Kính gửi Trung tâm Di sản các nhà Khoa học Việt Nam
Tôi đã được quý Trung tâm gửi tặng 2 tập Di sản Ký ức của nhà Khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Về tập 1, tôi đã có thư hoan nghênh sự ra đời của tập sách và góp một vài ý kiến chân thành sau khi cả hai vợ chồng tôi cùng đọc và trao đổi cảm nhận với nhau.
Tập 2 gây ấn tượng với chúng tôi càng nhiều hơn. Chúng tôi hoan nghênh cả ba Chủ đề đã được đề cập trong Lời Giới thiệu, nhưng ấn tượng nhiều nhất vẫn là Chủ đề thứ ba. Những cảm tưởng sau đây có thể coi là cảm nhận chung cho cả tập, nhưng lấy một số bài viết về GS Tôn Thất Tùng để đưa ra vài nhận định.
Tôi hoàn toàn nhất trí với Chủ tịch Hội đồng Biên soạn PGS TS Nguyễn Văn Huy rằng, loại sách này phải lấy tiêu chí Trung thực và Khách quan làm nguyên tắc hàng đầu. Do đó khi viết bài về Đài Phát sóng Phát thanh Mễ Trì, có một sự kiện trong tình hình hiện tại chưa thể nói hết, tôi đã photocopy và gửi tài liệu gốc là 4,5 trang hồi ký của một vị lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam cho thư ký Hội đồng Biên soạn, Nguyễn Thanh Hóa, dặn lưu lại để đến khi nào tình hình thích hợp thì đăng lại như một “Chuyện chưa nói về Sự kiện X”.
Trong tập 2, một chuyện tương tự đã xảy ra: “Phần thứ tư trong cuốn sách “Đường vào khoa học của tôi” do GS Tôn thất Tùng viết đã không được đưa vào trong lần xuất bản đầu tiên, cũng như chưa được bổ sung cho những lần tái bản sách sau đó”. Thế nhưng, phần tư liệu chưa được công bố này lại là những lời tâm huyết của GS Tôn Thất Tùng muốn tâm sự cùng thế hệ thanh niên thời đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh.
Hội đồng Biên soạn cho in ra, không những đảm bảo được nguyên tắc Trung thực và Khách quan của mình mà còn thể hiện sự kính trọng đối với GS Tôn Thất Tùng, một người thầy lớn, luôn tin tưởng và sẵn sàng là bạn với những người trẻ tuổi, những người xây dựng đất nước tương lai.
Vậy cái “Phần thứ tư…” đó có những gì? Nội dung quan trọng nhất là GS Tôn Thất Tùng nói rằng trong nghiên cứu phải có sự kiên trì, lấy ví dụ từ việc thực hiện phương pháp cắt gan của mình: bắt đầu từ năm 1937, bị thất bại vào năm 1939, đến năm 1960 mới nghiên cứu trở lại và mãi năm 1964 các đồng nghiệp trong ngoài nước mới thừa nhận.
Điều tôi tâm đắc nhất là từ sự việc đó ông đưa ra kết luận: “Một công trình có giá trị đòi hỏi nhiều thời gian… Đứng về khoa học mà nói, thành công không quan trọng trong nghiên cứu, sự quan trọng là xây dựng cho bản thân người nghiên cứu một thái độ khoa học, một phương pháp khoa học”.
Nội dung quan trọng thứ hai là GS Tôn Thất Tùng khuyên thế hệ trẻ muốn làm được khoa học thì phải trang bị cho mình vốn ngoại ngữ, bởi vì: “Trong vấn đề khoa học, thông tin là vào hàng đầu. Có nắm được tin tức nhiều mới biết phát minh tốt. Tin tức trong nước không đủ, vì nó chỉ giống như một hạt nước trong biển cả mênh mông về nghiên cứu khoa học của thế giới, phải nắm kịp thời vì tình huống khoa học thay đổi một cách rất nhanh chóng”. Ông cho rằng, trong thế giới ngày nay, một phát minh ở một ngành có tác dụng rất rộng rãi và có khi rất sâu sắc đến ngành khác. Chính vì vậy, ông khẳng định, ngoại ngữ chiếm vai trò then chốt và đặt ra một giả thiết hết sức nghiêm túc: “Nếu như tôi có quyền, tôi sẽ bắt buộc tất cả các trường đại học ngày nay phải dạy vào năm đầu tiên hai tiếng ngoại quốc trước khi vào học chương trình thật sự”.
…Và phải đến ngày nay (2012), Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Giáo dục hiện hành mới quy định nhà trường và các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân có thể dùng tiếng nước ngoài để giảng dạy.
Nội dung quan trọng cuối cùng mà GS Tôn Thất Tùng đặt ra là “Nghiên cứu khoa học phải đi đôi với phục vụ sản xuất và giảng dạy. Giảng dạy có nghĩa dạy nhóm chứ không phải lên lớp, dạy cách làm hơn là lý luận mà đã có trong sách. Việc này đặt ra tổ chức lại các trường đại học và phải coi các trường đại học là cơ sở cơ bản của nghiên cứu. Chúng ta nên theo kinh nghiệm của các nước ngoài tổ chức thành các đơn vị nghiên cứu và phát triển các đơn vị theo nhu cầu quốc gia. Chúng ta phải mở rộng các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất cho các đơn vị nghiên cứu…”.
Vâng, vấn đề này thì ngày nay cũng đang bàn và đang thí điểm ở một số nơi, nhưng chưa ai dám nói là thành công.
Phải chăng “Phần thứ tư…” của GS Tôn Thất Tùng chưa được công bố vì nó đi trước thời gian quá xa!…
Trở lại với vấn đề biên soạn, tôi nghĩ là chỉ bài này và bài “Phương pháp Tôn Thất Tùng” là đủ nói lên hết tính cách, phương pháp làm việc, sự bền bỉ đeo đuổi mục tiêu đã đặt ra, sự công nhận của đồng nghiệp trong nước và trên thế giới đối với phương pháp mổ gan Tôn Thất Tùng, cũng như tầm nhìn xa của Giáo sư trong việc đào tạo các nhà nghiên cứu trẻ. Từ đó, việc Giáo sư chủ trương phát động công tác nghiên cứu khoa học, cho lập các Viện chuyên ngành và chỉ đạo công tác nghiên cứu khi ông làm Thứ trưởng Bộ Y tế chẳng qua là sự tiếp nối có tính lôgic tư tưởng về chủ định và những biện pháp mà ông đã nghiền ngẫm từ lâu trước đó.
Về những việc làm có tính chất đối ngoại nhân dân của ông có sự gắn liền cá tính, và những mục đích lớn mà ông đeo đuổi. Đọc bài Đường lên Điện Biên, từ những câu nhận định về phong cảnh, con người miền núi, đến bài thơ, và những bức vẽ của ông trên bìa quyển nhật ký, ta thấy Giáo sư cũng có một tâm hồn nhạy cảm, một hành trang văn hóa phong phú, cộng thêm trình độ tiếng Pháp “siêu”, thỉnh thoảng điểm vài câu dí dỏm, đủ giúp ông làm tốt công tác đối ngoại tuy không chính thức mà mang lại nhiều hiệu quả.
Cuộc chiến 10 năm của ông từ 1969, lúc cả thế giới không ai công nhận, đến 1979 lúc chính quyền Ca-tơ buộc phải chính thức đặt vấn đề nghiên cứu các tác hại của chất diệt cỏ đối với những cựu binh sĩ Mỹ đã tham chiến ở Việt Nam là sự huy động tất cả những thế mạnh của mình vào một đề tài về mặt Y học quan trọng không kém đề tài mổ gan, nhưng ý nghĩa chính trị và nhân văn lớn hơn rất nhiều. Xét về những hoạt động vô cùng phong phú và đa dạng của GS Tôn Thất Tùng cả trong thời chiến và thời bình, trên cả quãng thời gian dài và những sự kiện xảy ra ở nhiều nước trên thế giới, việc tổng hợp và biên soạn tư liệu khá gọn và đủ về Giáo sư như vậy để những người ngoài ngành và các thế hệ sau hiểu ông là một việc khó mà trong Tập 2 này đã thực hiện được, thật đáng khâm phục.
Xin cảm ơn Ban Biên soạn về công lao và sức sáng tạo đã bỏ ra.
Hà Nội ngày 30 tháng 11 năm 2012
GS Nguyễn Văn Ngọ