Dòng sữa trắng Ba Vì

Năm 1958, theo sự chỉ đạo của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trung đoàn 658 thuộc Sư đoàn 388 được điều động từ chiến trường Tây Nam về Cục Nông binh1 để xây dựng Nông trường quân đội 658. Tháng 12-1960, Nông trường quân đội 658 do Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Cẩm quản lý, chính thức chuyển thành Nông trường Quốc doanh Ba Vì, trực thuộc Bộ Nông nghiệp (do ông Nghiêm Xuân Yêm làm Bộ trưởng). Từ năm 1959, Nông trường đi vào khai khẩn hoang và trồng trọt, chăn nuôi giống bò vàng địa phương. Đến năm 1963, Nông trường chuyển sang nuôi bò sữa với hai nhiệm vụ chính: Một là dùng bò nhiệt đới giống Sind phối giống bò vàng địa phương tạo đàn bò Lai Sind; Hai là dùng đực giống bò Lang trắng đen Bắc Kinh nhập từ Trung Quốc lai với bò lai Sind tạo đàn bò lai F1 lấy sữa. Đến những năm 1970, Nông trường đã có đàn bò lai lấy sữa. Lượng sữa thu được chưa nhiều, chủ yếu dùng để chế biến thành sữa cô đặc có đường, đóng hộp giao nộp theo kế hoạch Nhà nước, cung cấp cho dân sinh, quân đội và các bệnh viện.

Để đẩy mạnh sự phát triển của Nông trường, đầu năm 1972, Ủy ban Nông nghiệp Trung ương đã điều PTS Nguyễn Văn Thưởng từ Cục Chăn nuôi Gia súc lớn về làm Giám đốc Nông trường Quốc doanh Ba Vì. Nhận trọng trách lớn lao, ông đã tập trung tìm hiểu thực tế sự phát triển của Nông trường qua các giai đoạn. Thấy được thực trạng sản xuất hiện tại của Nông trường, cùng với những khó khăn của cán bộ công nhân, ông xác định: muốn yên dân trước hết phải tổ chức và đẩy mạnh sản xuất nhằm giải quyết tốt công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên Nông trường2. Vấn đề giải quyết thức ăn trong chăn nuôi được ông đặt lên hàng đầu. Tiếp đó, ông khẩn trương tổ chức lại quy trình lai tạo giống và phân bổ lại đàn bò nuôi theo hướng chuyên môn hóa để dễ theo dõi năng suất và kiểm tra kỹ thuật chăn nuôi bò.
 

 

 

 

Công nhân Nông trường đang chăm sóc đồng cỏ

Đầu năm 1972, Nông trường Quốc doanh Ba Vì có 5 đội sản xuất: 3 đội chăn nuôi (đội 1, đội 2 và đội 8), 2 đội trồng trọt (đội 5 và đội 3). Giám đốc Nguyễn Văn Thưởng đã phân công: Đội trồng trọt 5 ở cận kề với Đội chăn nuôi 1, có khu đất Đồi Kiên đã được san ủi thành vùng đất trồng cỏ làm bãi chăn và có cỏ cắt cho bò ăn bổ sung tại chuồng. Các bãi sình lầy cũng được cải tạo thành đập, hồ chứa nước dùng để tưới tiêu và làm bãi tắm cho đàn bò sữa. Đội trồng trọt 3, cận kề với Đội chăn nuôi 2 là điểm cuối của Nông trường về phía nam, giáp hai làng Đồng Mô, Ngãi Sơn, cách khu trung tâm Nông trường khoảng 4-5km, đã được khai hoang, nhưng chưa có sản phẩm gì đáng kể.

Được sự cộng tác tận tình của Phó Giám đốc Lâm Văn Tất và một số cán bộ khác ở Nông trường như: ông Huyện – Thư ký Công đoàn, ông Huyên – Trưởng phòng Lao động, ông Mười – xưởng Cơ khí và đội Máy kéo, ông Chân – Tổ trồng cây, ông Trị – Đội kỹ thuật trồng cỏ… Giám đốc Nguyễn Văn Thưởng đưa ra kế hoạch: Khi bắt đầu có mưa xuân (đầu năm 1972) sẽ ra quân tiến hành cải tạo những thảm cỏ đã có ở các đội sản xuất. Trồng thêm những thảm cỏ mới như một số loại cỏ họ đậu, thức ăn nhiều nước, đảm bảo quanh năm có đầy đủ thức ăn bổ sung tại chuồng3. Chủ trương này được các phòng, ban, nhất là các đội sản xuất hết sức hưởng ứng. Khi đó, Nông trường đã có xưởng cơ khí có thể sửa chữa, bảo dưỡng các máy nông nghiệp và có dàn máy móc, thiết bị kỹ thuật nông nghiệp khá đồng bộ, có thể dùng để cơ giới hóa đồng cỏ trong các khâu: làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và chế biến, dự trữ. Trong đó, phải kể đến máy kéo bánh hơi, bánh xích, máy cày 3 lưỡi, 5 lưỡi, máy rải phân bón, máy thái cỏ, máy cắt cỏ, máy đóng bánh cỏ khô… Nhờ đó, có thể triển khai kế hoạch cải tạo đồng cỏ và trồng thêm các nguồn thức ăn khác theo quy hoạch với mục đích xây dựng cơ sở thức ăn vững chắc để nuôi dưỡng bò sữa, phát triển theo định hướng năng suất sữa cao.

Bằng những điều kiện, cơ sở vật chất sẵn có, Giám đốc Nguyễn Văn Thưởng đã tiến hành một loạt các giải pháp kỹ thuật để cải tạo đồng cỏ hiện có ở Nông trường. Với những trà đồng cỏ Pangola, ông lên kế hoạch cho công nhân cắt cỏ vào đầu xuân. Khi bắt đầu có mưa, tiến hành cho bón phân. Đối với những đồng cỏ sử dụng năm thứ 2, ông giao cho công nhân cơ khí dùng bừa zíc-zắc bừa ngang dọc tạo điều kiện cho phân bón dễ thấm xuống mặt đất khi có sương và mưa đầu mùa. Ở những đồng cỏ có niên hạn sử dụng từ năm thứ 3 trở đi, dùng cày không lật để phân bón dễ dàng lọt vào tầng đất canh tác, giúp bộ rễ cỏ tái sinh khi có độ ẩm và mưa xuống. Những đồng cỏ này, Nông trại chủ yếu dùng để chăn thả luân phiên, hoặc làn thức ăn dự trữ, bổ sung tại chuồng cho vụ đông. Sau mỗi đợt thu hoạch, công nhân trồng trọt lại tiến hành bón NPK, nhằm thúc đẩy thân cỏ nảy mầm, đâm nhánh để có năng suất cao hơn ở vụ sau.

 

 

Áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò lai hướng sữa

 Khi vấn đề thức ăn được giải quyết, PTS Nguyễn Văn Thưởng chuyển sang củng cố đàn bò ở hai đội chăn nuôi 1 và 8. Cùng với việc tổ chức lại đàn bò theo hướng chuyên môn hóa sản xuất, ông phân công: Đội 8 chuyên nuôi bò lai Sind vừa nhân thuần vừa sản xuất bê lai F1-1/2HF trên cơ sở dùng đực giống Holstein Friesian Cu ba phối giống bò cái Lai sind. Đội 1 là đội chủ lực chuyên nuôi bò lai lấy sữa của nông trường và cho phối giống sản xuất bê lai F2-5/8HF, bê lai F2-3/4HF. Với sự sắp xếp như trên, năm 1973, Nông trường đã có 2 thế hệ bò lai hướng sữa. Đàn bò bước đầu được tổ chức lại và đảm bảo tốt khâu thức ăn, sản lượng sữa tăng lên rõ rệt qua từng kỳ kế hoạch sản xuất.

Ngoài việc cải tạo đồng cỏ có sẵn, ông tiến hành trồng mới cỏ Pangola, cỏ Voi, ngô dày và một số loại cây, cỏ khác làm thức ăn như cỏ họ đậu Stylo, mạch ba góc, cải bắp và các loại củ quả như khoai, sắn và bí đỏ…. Những vùng đồi có đá lộ đầu đều được trồng cây phủ xanh chống xói mòn như ở đồi Kiên, đồi Ba vành (Đội 5) và dọc ven hồ Đồng Mô Ngãi Sơn (Đội 3). Trong vòng 1 năm (1972-1973), Nông trường đã dự trữ trên đồng được một số loại cỏ. Đặc biệt, vụ hè thu năm 1972, ông đã bố trí cho lực lượng công nhân cơ khí ra quân cắt cỏ Pangola từ 6giờ chiều đến 12giờ đêm. Với số lượng là 200 tấn cỏ khô có được sẽ là nguồn thức ăn dự trữ rất quan trọng cho bò trong vụ đông xuân năm 1972-1973. 

 

 

Giám đốc Nguyễn Văn Thưởng đón tiếp Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm và làm việc

 

Trong những năm 1970 ấy, Giám đốc Nguyễn Văn Thưởng đã tận dụng những sản phẩm tự làm ra để bồi dưỡng cho công nhân làm việc có năng suất. Ông dùng một lượng sữa cô đặc có đường đóng cháy, bồi dưỡng cho công nhân cơ khí cắt cỏ ngoài đồng từ 6 giờ chiều đến 12h đêm. Ông khoán cho các đội trồng trọt, đội nào nộp đủ 1,5 đến 2 tấn thức ăn xanh trước giao thừa sẽ được nghỉ tết 3 ngày thay vì 1,5 ngày theo quy định. Từ đó, cán bộ công nhân viên hết sức phấn khởi, yên tâm với công việc, chung sức chung lòng cùng lãnh đạo xây dựng nông trường ngày một phát triển. Kết quả là từ những bàn tay cần cù của người lao động, trong năm 1972, lượng sữa của Nông trường thu được đã tăng từ 130 tấn cuối năm 1971 lên 297 tấn năm 1973. Sáu tháng đầu năm 1974 cao hơn cùng kỳ 6 tháng đầu năn năm 1973. Từ đó, ông lên kế hoạch theo dõi rút kinh nghiệm làm đà cho phát triển những năm kế tiếp, góp phần không ngừng tăng “Dòng sữa trắng Ba vì” ở mảnh đất địa linh nhân kiệt Ba Vì- Tản Viên.

Với những nghiên cứu về bò lai hướng sữa của GS Nguyễn Văn Thưởng làm cho Nông trường Quốc doanh Ba Vì trở thành cái nôi của bò lai hướng sữa Việt Nam. Ba chương trình cấp Nhà nước mà ông chủ trì, tham gia nghiên cứu là chương trình 02.08 (giai đoạn 1981-1985), chương trình 02.B (giai đoạn 1986-1990) và chương trình KN.02 (giai đoạn 1991-1995) đều có đề tài nghiên cứu về bò lai hướng sữa. Năm 2000, ông cùng các cộng sự vinh dự được đón nhận Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và công nghệ, góp phần tăng dòng sữa trắng Ba vì không chỉ ở vùng Ba Vì – Tản Viên, mà còn có ở mọi miền đất nước.

 

Ngoảnh đi ngoảnh lại, đã hơn 40 năm trôi qua. Mặc dù chỉ gắn bó gần 3 năm với Nông trường Quốc doanh Ba Vì, nhưng GS.TS Nguyễn Văn Thưởng sẽ không bao giờ quên những năm tháng công tác tại đây – nơi có đồng cỏ xanh mướt với dòng sữa trắng dồi dào được sản xuất bởi những Cô gái Suối Hai, chàng trai Cầu Giẽ. Đây cũng là nơi rèn luyện con người, để sinh ra những người con của đồng cỏ như Anh hùng Hồ Giáo. 

 

 

 

Nguyễn Thị Loan

 

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

 

 

—————————

1. Tổng cục Hậu cần ngày nay.

2. Phỏng vấn, ghi hình GS.TS Nguyễn Văn Thưởng, ngày 07-5-2013.

3. Trích bài viết “Tình hình nghiên cứu và hình thành bò lai hướng sữa ở Việt Nam”, của GS.TS Nguyễn Văn Thưởng. In trpng Kỷ yếu 50 năm thành lập Viện Chăn nuôi (1952-2002).