Gặp lại vị tướng chống bệnh sốt rét

Tôi có một kỷ niệm liên quan đến Thiếu tướng, GS, TSKH Bùi Đại. Đó là hồi đầu năm 1992, tôi viết bài đăng trên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần về việc một tốp công nhân đào đường ống nước ở phố Thanh Miến (Hà Nội) thấy một bộ hài cốt còn nguyên vẹn bên cạnh khẩu súng Mousqueton, có khá nhiều vỏ đạn rơi vãi xung quanh. Sau khi báo đăng, một phụ nữ trung niên đến gặp, cảm ơn tôi vì nhờ bài báo mà chị đã tìm được hài cốt của cha chị, một tự vệ thành Hà Nội năm 1946. Người xác nhận sự việc này chính là GS Bùi Đại lúc đó đang đương chức Viện trưởng Viện Quân y 108.

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Bùi Đại

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Bùi Đại.
Ảnh: Phạm Quang

– Phải rồi! – GS Bùi Đại nhớ lại – Khi Toàn quốc kháng chiến tháng 12-1946 nổ ra, tôi đang học năm thứ nhất Trường Y-dược thuộc Viện Đại học Đông Dương, đã cùng nhiều sinh viên “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” như lời bài ca Xếp bút nghiên của anh Lưu Hữu Phước cũng là một đồng môn của tôi ngày đó. Đội tự vệ thành Hoàng Diệu của tôi đào hào chắn ở cuối đường Pierre Pasquier (nay là đường Hoàng Diệu) giáp phố Thanh Miến để cản đường tiến của quân Pháp có xe tăng yểm trợ. Cuộc “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” của chúng tôi diễn ra từ sáng sớm đến đầu giờ chiều thì do lực lượng địch quá mạnh, chúng tôi được lệnh rút về phía Đê La Thành-Ô Chợ Dừa. Địch đã lố nhố trước mặt và người bạn chiến đấu đứng ngay sát tôi cùng khẩu súng trường đã trúng một viên đạn vào ngực, gục xuống chiến hào. Sau này, xe của địch đã san ủi phẳng khu vực trận địa ấy. Ngày đó, tôi đọc bài báo của anh và đã gọi điện báo ngay cho con gái của liệt sĩ, khẳng định bộ hài cốt cùng khẩu súng chính là của cha cháu. Cơ quan quân sự thành phố đã làm lễ đưa hài cốt về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ. Những năm sau này, cháu gái đó thường đến thăm gia đình tôi, coi như người thân trong nhà.

– Đến đầu năm 1947, Trung đoàn Thủ Đô rút khỏi Hà Nội, GS ở đơn vị nào? – Tôi hỏi.

– Tôi làm việc ở Quân y vụ Thái Nguyên. Rồi cuối năm đó, tôi được cử đi học tiếp trường y kháng chiến đặt ở Chiến khu Việt Bắc do bác sĩ Hồ Đắc Di làm Hiệu trưởng. Lớp chúng tôi có các anh sau này đều trong ngành quân y như: Nguyễn Huy Phan, Nguyễn Sĩ Quốc, Lê Cao Đài… Mỗi năm chúng tôi về trường học 3 tháng, còn 9 tháng đi thực tế, trực tiếp tham gia các chiến dịch lớn như Tây Bắc, Thượng Lào… Đầu năm 1954, lúc tôi đã có bằng bác sĩ rồi, đang là Trưởng ban Điều trị, Phó trưởng phòng Kế hoạch Cục Quân y thì Cục trưởng Vũ Văn Cẩn gọi lên giao nhiệm vụ cùng ông đi Chiến dịch Điện Biên Phủ. Cục trưởng bảo: Người lính quân y chúng ta vào mỗi chiến dịch đều phải là người đi trước về sau. Lần ấy thầy trò bí mật lên sát mặt trận điều tra thực địa để bố trí các trung tâm y tế phục vụ thương binh, bệnh binh khi chiến dịch mở màn. Kết thúc chiến dịch, chúng tôi là người lính cuối cùng rời khỏi trận địa cùng với thương binh.

Giáo sư Bùi Đại (ngoài cùng, bên phải) trong một chuyến công tác tại chiến trường Nam Bộ, năm 1972

Giáo sư Bùi Đại (ngoài cùng, bên phải) trong một chuyến công tác tại chiến trường Nam Bộ, năm 1972. Ảnh tư liệu

Hòa bình lập lại trên miền Bắc, tôi về công tác tại Bệnh viện Quân y 103, sau đó được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh, là một trong những cán bộ quân y đầu tiên bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) chuyên ngành truyền nhiễm tại nước bạn. Trở về nước, tôi là Chủ nhiệm bộ môn Trường Đại học Quân y (nay là Học viện Quân y) kiêm Chủ nhiệm Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Quân y 103. Bắt đầu quãng thời gian kết hợp giảng dạy tại trường với các chuyến đi B ngắn, B dài để giải quyết cho bộ đội, nhân dân những vấn đề cụ thể về bệnh truyền nhiễm, mà chủ yếu là bệnh sốt rét.

– Thưa, ngày đó giải quyết dứt điểm dịch sốt rét cho bộ đội và nhân dân là nan giải. Nhưng nghe nói, trước khi đi giải quyết vấn đề sốt rét ở Trường Sơn, GS còn đi dập dịch gọi là sốt mò ở Tây Bắc?

– Ngành truyền nhiễm thường gặp nhiều loại dịch bệnh lắm. Nhưng sốt mò lúc đó thì chưa được biết tới nhiều. Một số bà con ở vùng cao sông Mã bị một loại dịch chưa từng diễn ra làm hàng loạt người lớn, trẻ em cứ sốt li bì không rõ nguồn gốc. Dân y yêu cầu quân y hỗ trợ. Thế là Cục Quân y cử tôi và bác sĩ Võ An Dậu (em ruột nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh) lên Tây Bắc. Sau khoảng một tháng điều tra, rồi trực tiếp điều trị cho nhân dân bị nhiễm loại bệnh này, chúng tôi đã tìm ra thủ phạm là một loại ký sinh trùng có nhiều trong gà nuôi. Những con mò nhỏ bé li ti màu đỏ đã hút máu người và truyền loại bệnh sốt mò.

– Mới đây, tôi được Đại tá, PGS, TS Trần Mạnh Chí, nguyên Giám đốc Bệnh viện Quân y 103 nhờ viết một cuốn hồi ký, ông kể rằng đợt đi B năm 1968-1972 vào Trường Sơn có gặp GS trong đó đang cùng Phòng Quân y Bộ tư lệnh Trường Sơn giải quyết vấn đề sốt rét cho bộ đội. Chính GS đã phổ biến cho đơn vị của PGS Trần Mạnh Chí phác đồ điều trị mới rất có hiệu quả, đẩy lùi được căn bệnh sốt rét…

– Trước hết cần nói rõ về căn bệnh này. Ở chiến trường, bộ đội, thanh niên xung phong hy sinh nhiều vì sốt rét ác tính. Bản thân tôi vào chiến trường năm 1966 cũng một lần dính sốt rét ở Sa Thầy (Kon Tum). Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm được lưu hành có tính chất địa phương với 3 triệu chứng điển hình là sốt cao, rét run, ra mồ hôi nhiều và có những biến loạn trong máu cùng những rối loạn trầm trọng ở lách, gan. Bệnh nhân thường mệt lả, không ăn uống được gì, lại nôn nhiều nên gầy đét, da mặt bủng, huyết áp kẹt, mạch nhỏ yếu. Ngày đó, ta vẫn điều trị sốt rét bằng thuốc Quinin, đến một thời gian ký sinh trùng sốt rét nhờn thuốc. Buổi đầu, tôi và anh em các đội điều trị trên Đường Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình theo đúng phác đồ của Cục Quân y mà số người bị sốt rét rồi tử vong vẫn không thuyên giảm. Tại các bãi khách đưa đón quân vào ra, số người phải nằm lại do sốt rét không đếm xuể. Theo điều tra, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học quân và dân y, mà đầu tiên phải kể đến GS Đặng Văn Ngữ, người đã từng vào Trường Sơn nghiên cứu về muỗi sốt rét, rồi hy sinh tại chiến trường, thì trên toàn tuyến có tới 18/25 chủng loại muỗi Anopheles gây bệnh sốt rét, có 23/66 điểm có ký sinh trùng sốt rét đã kháng thuốc chống sốt rét rõ rệt. Vì vậy chúng tôi phải dùng theo phương pháp phối hợp Quinin hoặc Chloroquine với Pyrimethamine. Phương pháp này được Cục Quân y chấp nhận và đưa vào điều trị kịp thời cho bộ đội.

Sốt rét không có miễn dịch tự nhiên, ai cũng có thể nhiễm sốt rét, tốc độ cảm nhiễm nhanh hay chậm tùy theo cá thể. Trong khoảng 3 năm, các lực lượng của tuyến Đường Hồ Chí Minh đã lần lượt sơ nhiễm từ 99% đến 100%. Chính từ các kết quả nghiên cứu tại chiến trường đã đưa đến quyết định bỏ cách uống thuốc điều trị dự phòng hằng tuần và đồng thời cũng bỏ cách uống dự phòng thường xuyên cho người đã ở nhiều năm trong vùng sốt rét. Từ đó tìm cách uống thuốc có hiệu lực hơn, uống chặn cơn, chặn mùa, chặn dịch. Bộ đội Trường Sơn ở rải ra trên nhiều vùng rừng núi địa hình, khí hậu khác nhau nên mức độ sốt rét, mùa sốt rét cũng có sự khác biệt. Từ đây, ngành quân y Trường Sơn đã hiểu sâu hơn về dịch tễ học, lâm sàng bệnh sốt rét, phát hiện được hiệu lực giảm, kém của một số thuốc, có kế hoạch mang tính chiến lược lâu dài và toàn diện trong việc phòng, chống bệnh sốt rét trên toàn tuyến, đồng thời rút ra những kinh nghiệm quý báu phổ biến cho các chiến trường khác.

– Thưa GS, từng đến những chiến trường gian khổ, ác liệt như vậy mà nay tuổi 95 GS vẫn minh mẫn, lạc quan…

– Tôi năm nay tuy sức khỏe không còn được như các năm trước, song đầu óc vẫn minh mẫn và đi lại được bình thường. Bà nhà tôi trước cũng là phó chủ nhiệm một khoa của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, kém tôi vài tuổi, cũng ngoài “cửu thập” rồi, hiện sức khỏe khá tốt. Anh ạ, chúng tôi đều trên tuổi “xưa nay hiếm” cả. Những năm gần đây, tôi luôn có được sự động viên trong gia đình cùng bạn bè, anh em lớp sau ở đơn vị cũ nên lúc nào cũng cảm thấy vui vẻ, lạc quan… 

Phạm Quang Đẩu

Nguồn: http://sknc.qdnd.vn/nhan-vat/