Tham gia công tác tại Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y Hà Nội ngay khi hòa bình lập lại, với vai trò là cán bộ giảng dạy chính, Chủ nhiệm Bộ môn kiêm Phó Viện trưởng Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng (từ 1967-1986), GS Đỗ Dương Thái là một trong những người đầu tiên có đóng góp nhất định cho lĩnh vực Ký sinh trùng, đặc biệt là việc phòng chống bệnh sốt rét. Năm 1958, với việc xuất bản hai cuốn sách Ký sinh trùng học và Thực tập Ký sinh trùng học, Đỗ Dương Thái đã bước đầu thống nhất giáo trình học tập chung cho Bộ môn. Thông qua các bài báo được đăng tải trên các tạp chí trong và ngoài nước, ông được giới Y học Việt Nam và trên thế giới đánh giá cao.
Cả cuộc đời say mê, tận tụy với công việc…
Trong ký ức của những thế hệ học trò, đồng nghiệp trưởng thành từ Bộ môn Ký sinh trùng, Giáo sư Đỗ Dương Thái luôn là một người thầy mẫu mực, có phương pháp làm việc đặc biệt. Ý thức được trách nhiệm của người thầy, cũng như tầm quan trọng của phương pháp làm việc hiệu quả, GS Thái luôn quan niệm: Nghiên cứu khoa học phải gắn liền với yêu cầu thực tiễn của xã hội đặt ra. Bởi vậy, các nghiên cứu của ông qua các giai đoạn lịch sử đều có giá trị ứng dụng trong việc khám chữa bệnh cho nhân dân.
Vinh dự được học tập, công tác tại Bộ môn Ký sinh trùng dưới sự hướng dẫn của GS Đỗ Dương Thái, Th.S Trương Thị Kim Phượng đã học được ở người thầy đáng kính của mình nhiều bài học kinh nghiệm quý. Hình ảnh một người thấy với vóc dáng mảnh khảnh trong chiếc áo blu trắng say sưa bên bàn làm việc vẫn luôn là hình ảnh mang dấu ấn sâu sắc đối với những học trò, đồng nghiệp khi nhớ về GS Đỗ Dương Thái. Chia sẻ về cách đọc sách theo “hình khối” của GS Thái, Th.S Phượng cho biết: Khi còn là sinh viên trường Đại học Y, thầy Thái hướng dẫn 11 khóa luận tốt nghiệp, trong đó có tôi. Không thể ngờ được trong vòng một đêm mà thầy có thể đọc và sửa rất chi tiết hết các lỗi trong mỗi khóa luận. Sau này, khi may mắn được công tác dưới sự hướng dẫn của thầy, tôi mới biết khi đọc, thầy phân chia chủ đề trong từng nội dung, thầy gọi đó là cách đọc theo hình khối1.
Cách viết sách của GS Đỗ Dương Thái cũng rất đặc biệt. Ông viết sách hầu như không cần nháp, hoàn chỉnh bản thảo viết lần 1 là ông có thể chuyển đi in ấn. Trong quá trình công tác, Th.S Trương Thị Kim Phượng thường được đảm nhiệm vai trò là thư ký riêng của GS Thái. Mỗi lần viết sách, ông thường đọc cho thư ký ghi lại. Ông đòi hỏi thư ký không chỉ có khả năng viết nhanh mà phải viết đẹp nữa. Từ khi “đọc” cho thư ký viết cho đến khi xuất bản, sách ông viết hầu như không phải chỉnh sửa. Mỗi khi “bí” từ, thầy thường làm một trong ba động tác: Rít một hơi thuốc lá thật sâu và ngửa cổ để nhả khói; Hoặc là vuốt tay lên vầng trán cao và hói của mình; Ba là phủi tay lên mặt bàn. Chỉ sau một trong 3 động tác đó là GS Thái lại tiếp tục đọc vanh vách2. Những kiến thức được ông đọc ra “lưu loát” ấy, hẳn phải được ông tích lũy và mài rũa trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập nghiêm túc. Là người có trí nhớ tốt, nên sau mỗi lần nghỉ giải lao, đến khi viết tiếp, hầu như GS Thái không hỏi lại thư ký là đã viết đến phần nào. Thậm chí có những cuốn sách dừng viết trong thời gian dài, GS Thái cũng không cần hỏi lại thư ký, ông cứ tiếp tục đọc các nội dung tiếp theo cho thư ký ghi chép.
Không chỉ là người uyên thâm về kiến thức chuyên môn, GS Đỗ Dương Thái còn là người giỏi ngoại ngữ và có cách nói chuyện hóm hỉnh, lôi cuốn người nghe. Bởi vậy, mỗi khi có các đoàn chuyên gia nước ngoài sang thăm trường Đại học Y, ông thường được cử làm đại diện nhà trường đón tiếp và làm việc với họ. Năm 1979, trường Đại học Y vinh hạnh được đón tiếp một chuyên gia người Pháp về Ký sinh trùng. Là người may mắn được tham dự bữa tiệc mời khách, Th.S Trương Thị Kim Phượng có dịp chứng kiến sự uyên bác của ông. Cô vẫn nhớ, trong bữa tiệc đó, vị chuyên gia Pháp cứ thưởng thức loại rau thơm nào là lại cầm lên hỏi GS Thái “đây là loại rau gì và nó có tác dụng gì?”. Cứ thế, lần lượt các loại rau húng, rau tía tô, rau kinh giới… được GS Thái giải thích bằng tiếng Pháp, đọc cả tên Latinh của từng loại. Vị chuyên gia người Pháp tỏ ra hết sức thán phục. Khi được biết, GS Thái chưa một lần sang Pháp, vị chuyên gia đã phải thốt lên rằng: Nước Pháp có lỗi với ngài!. Rồi GS Thái được mời sang Pháp tham gia giảng dạy khoảng 2 tháng. Khi kết thúc chuyến công tác, ông còn được nước bạn cung cấp một số trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu cho Bộ môn, trong đó có nhiều kính hiển vi, hiện vẫn được Bộ môn lưu giữ.
GS Đỗ Dương Thái (thứ 2, từ phải) trong một buổi làm việc với sinh viên
tại Bộ môn Ký sinh trùng, năm 1982
Trái ngược với sự nghiêm túc trong công việc hàng ngày, trong cuộc sống đời thường, GS Đỗ Dương Thái lại là người giản dị, luôn quan tâm tới đời sống của các đồng nghiệp. Mỗi khi có dịp đi công tác, các cán bộ trong Bộ môn đều rất thích được đi cùng ông. Giáo sư Thái có cách nói chuyện hóm hỉnh, ông thường dùng những kiến thức sâu rộng của mình để nói chuyện với nhiều đối tượng khác nhau. Từ các Giáo sư bậc thầy đến anh lái xe, ông đều có thể trò chuyện như những người bạn. Trong mỗi chuyến công tác giảng dạy ở xa như ở Tây Nguyên, TP Hồ Chí Minh… Giáo sư Thái thường chủ động đề xuất với nhà trường để ông và những cán bộ khác đi cùng được hưởng chế độ công tác như nhau. Dù tất bật với công việc, nhưng những chặng đường ông từng đi qua, đều để lại những dấu ấn sâu sắc với tiếng cười ròn rã và sự lạc quan của một nhà khoa học đầy tâm huyết. Chính sự thoải mái, đồng cảm trong cuộc sống đời thường và tính nghiêm khắc trong công việc của GS Đỗ Dương Thái đã khiến các đồng nghiệp cảm thấy vừa phải có trách nhiệm, vừa thấy phấn khởi để làm việc hiệu quả. Các đồng nghiệp luôn nói vui với nhau rằng “GS Thái yêu Bộ môn Ký sinh trùng hơn cả gia đình mình”. Vì lẽ, mỗi khi đi công tác về, kể cả là đi nước ngoài hay trong nước GS Thái chỉ ghé qua nhà cất đồ đạc, 5 phút sau đã thấy ông có mặt ở Bộ môn.
Tâm nguyện cuối cùng
Một đóng góp quan trọng của GS Đỗ Dương Thái không thể phủ nhận, đó là việc ông rất chú trọng bồi dưỡng thế hệ trẻ. Ông không chỉ đào tạo ra được những thế hệ tiếp nối sự phát triển của Bộ môn mà còn hướng tới việc đào tạo phải phù hợp với yêu cầu của xã hội, theo kịp với những tiến bộ của y học thế giới. Ông luôn tạo điều kiện cho các cán bộ được tiếp cận với sự phát triển y học của thế giới bằng cách gửi các tham luận tới các Hội nghị khoa học quốc tế, viết các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước. Các thế hệ học trò thành đạt của GS Thái phải kể đến PGS.TS Nguyễn Thị Minh Tâm, PGS.TS Phạm Văn Thân, PGS.TS Hoàng Tân Dân, PGS.TS Nguyễn Văn Đề, PGS.TS Phạm Trí Tuệ, PGS.TS Phạm Hoàng Thế, Th.S Trương Thị Kim Phượng… Họ đều là những học trò xuất sắc được ông quan tâm, bồi dưỡng từ những ngày đầu nhận công tác. Những bài học về phương pháp nghiên cứu khoa học, về nhân cách sống của GS Đỗ Dương Thái luôn được họ trân trọng và hướng tới.
Sinh thời, GS Đỗ Dương Thái luôn quan niệm con người sống chết có số. Ông thường tâm sự với các học trò rằng, ông không sợ chết, nhưng khi mất ông mong muốn được ra đi một cách nhẹ nhàng và những giây phút cuối cùng của cuộc đời cũng sẽ là ở Bộ môn Ký sinh trùng – nơi ông trao gửi tất cả tâm huyết, cuộc đời. Hoặc nếu có thể, ông muốn ra đi trên máy bay, trong một chuyến công tác nào đó để được làm việc đến hơi thở cuối cùng.
Từ những năm 1970, ông đã phát hiện ra mình bị mắc căn bệnh nhồi máu cơ tim. Mặc dù được Bác sĩ Nguyễn Lân Việt điều trị, qua khỏi 2 lần nhưng đến năm 1986, cơn nhồi máu cơ tim thứ ba đã cướp đi tính mạng của ông. Đó là vào một buổi chiều tháng 10-1986. Khi PGS.TS Hoàng Tân Dân gặp ông ở Bộ môn thì ông đang trong tình trạng loạn nhịp tim, không đo được huyết áp. Mặc dù được các đồng nghiệp, học trò hết lòng cứu chữa, nhưng ông không qua khỏi, GS Đỗ Dương Thái đã trút hơi thở cuối. Hình ảnh về người thầy đáng kính trong giây phút cuối cùng của cuộc đời vẫn in đậm trong tâm trí những người học trò. “Khi chuyển thầy xuống Bệnh viện Hữu nghị, thầy vẫn còn tỉnh táo. Nằm trên băng ca cấp cứu thầy còn với gọi cô Phượng cất hộ gói thuốc lá Kỳ Hòa vào trong ngăn kéo và cả đôi dép dưới gầm bàn. Khi nằm trên băng ca từ xe vào Viện, thầy còn giơ tay chào các học trò, đồng nghiệp đang công tác tại bệnh viện. Nhìn hình ảnh này, tôi không nén được xúc động” – PGS.TS Hoàng Tân Dân nhớ lại.
Chúng tôi được nghe kể lại rằng, buổi sáng ngày GS Đỗ Dương Thái mất, dường có linh cảm mách bảo mà ông đã bảo con gái nấu món canh cá quả – món ăn yêu thích để thưởng thức lần cuối? Ông cũng nhờ vợ tìm lại chiếc chăn lụa, ông mua trong một chuyến công tác tại Trung Quốc được để dành khá lâu, ra đắp. Rồi cũng trong ngày định mệnh ấy, ông được ông Kiều Tùng Lâm (công tác tại Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng) mời nhâm nhi ly café Lâm tại phố Nguyễn Hữu Huân… Tất cả như được đoán định, để lần cuối ông được tận hưởng những sở thích đời thường của mình, để được ra đi thanh thản.
Giáo sư Đỗ Dương Thái đã ra đi mãi mãi trong sự thương tiếc của gia đình, người thân và bạn bè, đồng nghiệp, học trò. Ngày tiễn đưa ông về với Tiên tổ, học trò khóc rất nhiều, có những người khi nhận được tin dữ đã lặn lội hàng trăm cây số để được nhìn thầy lần cuối. Thậm chí có một số học trò như anh Đặng Tuấn Đạt (nguyên Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên) đến Hà Nội muộn nhưng vẫn tìm được gặp thầy lần cuối trong đêm… Với PGS.TS Hoàng Tân Dân (nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Ký sinh trùng) thì GS Đỗ Dương Thái ra đi là mất mát, thiệt thòi lớn cho ngành Y và để lại sự tiếc thương cho nhiều thế hệ học trò từng học tập và công tác tại Bộ môn Ký sinh trùng.
Đã gần 30 năm trôi qua kể từ khi GS Đỗ Dương Thái không còn nữa, nhưng với vốn tri thức uyên thâm và những bài học về nhân cách sống, về nềm đam mê tận tụy với công việc của ông luôn được các học trò kể lại với niềm tự hào, thành kính. Nhân ngày sinh nhật lần thứ 86 của cố GS Đỗ Dương Thái (18/6/1927-18/6/2013), qua bài viết, Trung tâm Di sản các nhà khoa học xin chia sẻ với quý bạn đọc cùng những lời tri ân đối với một nhà khoa học tận tâm, tận lực – Giáo sư Đỗ Dương Thái.
Nguyễn Thị Loan
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
———————————————
1, 2. Theo lời kể của Th.S Trương Thị Kim Phượng trong buổi làm việc với Trung tâm, ngày 11-12-2012.