Giáo sư Hà Tôn Vinh: Con người của mùa xuân dân tộc

Nhưng có lẽ ông là một trong số những nhân vật mà tôi được hầu chuyện trong thời gian lâu nhất, dù lúc đầu chỉ giao kèo với ông là khoảng hơn 1 giờ đồng hồ.

Một cuộc đời bôn ba dường như biến ông thành tấm gương phản chiếu những bài học thành công và thất bại cho thế hệ doanh nhân trẻ. Đến nỗi, ông tự tin khẳng định, nếu thiếu những bài học đó, họ sẽ không có đủ mảnh ghép quan trọng trong các quyết định đầu tư, kinh doanh.

1. Niềm đam mê kinh doanh của ông nhen nhóm trong khoảng thời gian ông 30 tuổi, khi ông từ Mỹ sang châu Phi du lịch, thấy cuộc sống người dân nơi đây nghèo quá, lòng trắc ẩn trong ông trỗi dậy, nhưng ông lại không có nhiều tiền để đóng góp. Muốn có tiền phải kinh doanh, muốn kinh doanh lâu dài phải thành công. Ông đã kinh doanh máy tính thành công tại Mỹ và bắt đầu mở rộng đầu tư sang các thị trường khác.

Mải mê ở những thị trường mới, thị trường Mỹ bị bỏ bê dẫn đến thất thoát và không thể xử lý kịp. “Đúng là trong kinh doanh có những thất bại không thể lường trước được. Sự sụp đổ nhanh đến mức mà chính tôi cũng không hiểu vì sao. Mãi sau này, tôi mới nhận ra, trong kinh doanh không thể tồn tại tâm lý bỏ thì thương, vương thì tội”, ông chia sẻ.

Sự sụp đổ đó kéo ông xuống đáy của xã hội khi mất cả tài sản lẫn gia đình yêu quý của mình. Khi đó, còn lại duy nhất trong ông chính là niềm tin vào bản thân mình và lời động viên từ  câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Còn trời, còn đất, còn non nước/ Có lẽ ta đâu mãi thế này”.

Với vẻn vẹn 2 USD trong túi, ông phải nhịn cả ăn uống, dành đổ xăng cho chiếc  Mercedes S500, đủ đi tới nhà người bạn để vay 2.000 USD duy trì cuộc sống. Ông mất 6 năm xây dựng lại sự nghiệp và 4 năm nữa để phát triển. Chính khoảng thời gian tối tăm đó là thước đo bản lĩnh con người ông, giúp ông thành công trở lại và được vinh danh là 1 trong 200 doanh nhân trẻ tiêu biểu của nước Mỹ.

Nhìn lại quãng đường hơn 30 năm lăn lộn kinh doanh tại vùng châu Á – Thái Bình Dương, châu Âu và Tây Phi trong lĩnh vực phát triển chiến lược kinh tế, quản lý và sáp nhập doanh nghiệp, vị giáo sư tóc muối tiêu quyết định chọn cách đóng góp và làm giàu cho quê hương bằng việc giáo dục và đào tạo cho thế hệ doanh nhân.

“Doanh nhân là những người gần gũi với tôi nhất. Tôi thấy nhiều doanh nghiệp đang rơi vào ngõ cụt, hay mắc những sai lầm giống tôi đã từng mắc phải mà họ không hay biết. Họ cần những người góp ý, chỉ lối và đây là thời điểm để những người như tôi vào cuộc”, ông nói.

Cuộc sống của ông bận rộn là vì thế. Một năm có 365 ngày, thì có tới hơn 200 ngày ông làm việc trên những chuyến bay, những cuộc hẹn chớp nhoáng.  

Trong các vai ông đảm nhiệm, ông thích mọi người gọi ông là “Người đưa tin” – luôn đứng trước để nhắc nhở mọi người hoặc “Người giữ đuôi ngựa”- luôn đứng sau để là mảnh ghép quan trọng trong chìa khóa thành công của doanh nhân.

2. Giọng ông luôn chùng xuống mỗi khi nhắc đến những “cái chết” của doanh nghiệp trong thời gian qua.

Song ông vẫn giữ cái nhìn thẳng thắn: “Tôi không ngạc nhiên về những cái ‘chết’ của họ. Không phải tôi  không biết buồn thương, mà là nhìn thẳng vào sự thật, biết chấp nhận và biết đổi mới”.

Ông bảo, Việt Nam vẫn không có một khu vực doanh nghiệp tư nhân độc lập đúng nghĩa. Các doanh nghiệp tư nhân vẫn làm ăn dựa vào quan hệ, sự hỗ trợ của chính quyền. Khi những điều ấy không còn, họ lâm vào khó khăn và phải rời cuộc chơi.

Những doanh nghiệp biết dùng cái tài để làm việc, cái mũi để ngửi và nắm bắt cơ hội thương trường còn ít lắm. Không những vậy, nhiều doanh nhân ôm mộng tung hoành, phát triển khắp nơi như “hải tặc”, nhưng lại mong trời yên, biển lặng. Đó là tư duy không tưởng đối với người làm kinh doanh.

Hơn lúc nào hết, đất nước cần một thế hệ doanh nhân biết chấp nhận chết đi để sống lại, để tái sinh, với tinh thần liều lĩnh, vươn ra biển cả, làm người tiên phong khai phá vùng đất mới.

Vậy đó, con người ông là vậy. Để có thể tồn tại đến hôm nay, bản thân ông, bên cạnh lòng can đảm, cũng phải học hỏi, rèn luyện lối tư duy mở, không quá sáo mòn, câu nệ.

3. Trong khi nhiều bạn bè của ông là người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài về nước được một thời gian lại ra đi vì thất vọng, thì ông đã sống và làm việc tại Việt Nam 15 năm. Thời gian đủ dài để ông nếm trải những thăng trầm của cuộc sống và việc kinh doanh tại quê nhà.

Ông quyết định trở về chỉ vì được làm điều mình thích, mình đam mê và ông hài lòng vì quê hương đã cho ông cơ hội được cống hiến. Hơn nữa, ông muốn chứng minh với các bạn của ông rằng, ông mà sống được thì họ chắc chắn cũng sống được.

Nếu mình có tư duy về nước làm bổn phận cống hiến, thì không còn tâm lý mong chờ, hay muốn có được lợi nhuận thu về xứng đáng với những gì mình bỏ ra. Chẳng thế mà, bao nhiêu năm nay, ông vẫn duy trì ý nghĩ đó để đóng góp mà không kỳ vọng nhiều vào sự trả ơn. Yếu tố đó không những làm nên thành công của ông, mà còn là ngọn lửa nuôi dưỡng hạnh phúc trong tâm hồn ông.

Vẫn biết rằng, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng nhiều con én chắc chắn sẽ làm nên. Ông bảo, ngày nào ông còn cựa quậy được, thì ngày đó ông vẫn muốn làm việc.

Chứng kiến những học viên của mình sẵn sàng chờ đợi nhiều tháng để nghe mình tư vấn, ông thấy vui và hạnh phúc lắm. Nhưng trong sâu thẳm, nỗi buồn của ông vẫn không vơi.

Bởi một lẽ, như ông chiêm nghiệm, tâm lý người Việt hễ thấy ai làm sai, thất bại là có thể quên luôn cá nhân đó. “Không có ai đủ sức một mình làm vẹn toàn mọi việc cả. Nhưng nếu họ học được những bài học từ những sai lầm của thế hệ đi trước, thì họ đã thành công được 50% rồi. Tôi chỉ kỳ vọng có vậy thôi!”, ông nói.

Đối thoại với Giáo sư Augustine Hà Tôn Vinh

Theo ông, Việt Nam cần làm gì để tháo mớ bòng bong mà nền kinh tế đang vùng vẫy thoát ra?

Con người phù hợp, tư duy và phong cách quản lý hiện đại là các yếu tố then chốt. Chúng ta cần những người không chỉ tài đức, mà còn có cung cách quản lý phù hợp với hoàn cảnh, với các khó khăn. Cần có thêm nhiều doanh nhân có kinh nghiệm kinh doanh và quản lý làm việc trong các cơ quan chính quyền để giúp Chính phủ làm các quyết sách đúng đắn và lâu dài, ảnh hưởng đến kinh tế, doanh nghiệp.

Làm thế nào để tìm được những con người phù hợp như vậy, thưa ông? 

Ở các nước tiên tiến, phát triển trên thế giới, cả châu Á nữa, doanh nhân và những người có kinh nghiệm quản lý các chương trình hay dự án công hoặc tư thường được khuyến khích tham gia hay chọn vào làm trong Chính phủ hay các cơ quan chính quyền, để họ có thể giúp thi hành và hoàn thiện các chiến lược hay chính sách quốc gia. Ở Việt Nam, cần có những người tài và có kinh nghiệm như thế trong chính quyền.

Điều gì khiến ông khó chịu đối với các học viên là doanh nhân của mình?

Đó là tâm lý ngại đi học vì sợ mọi người khác biết mình kém cỏi.

Điều khác biệt cốt lõi của ông so với các thầy giáo khác là gì?

Tôi không muốn người thầy đi dạy tạo cho học viên cảm tưởng thầy biết nhiều, để học viên mong chờ thầy giải quyết các vấn đề mà mình mắc phải. Tôi thường kể cho họ nghe câu chuyện thất bại của đời mình, hoặc của nhiều doanh nhân khác có chung hoàn cảnh, hiện trạng của doanh nghiệp họ, để họ tự tìm cách giải quyết lấy. Như vậy, may ra họ mới học được bài học.

Hiện các học viên thích ông dạy những môn học gì?

Tôi chọn một số môn mà doanh nghiệp Việt Nam họ thích nhất như chiến lược kinh doanh mới, quản lý tầm nhìn và hành động, quản lý dự án và hợp đồng, đàm phán hợp tác phát triển kinh doanh và quản lý sự thay đổi. Thời điểm này, doanh nhân cần được học hỏi những học thuyết và phong cách quản trị mới, vì chúng ta đang trong thời kỳ hội nhập với nhiều đòi hỏi phải thay đổi tận gốc và toàn diện. Cung cách quản lý truyền thống từ trước đến nay đã lỗi thời và sẽ không giúp chúng ta tồn tại được nữa.

Nguồn:www.baomoi.com/Home/KinhTe/www.baodautu.vn/Giao-su-Ha-Ton-Vinh-Con-nguoi-cua-mua-xuan-dan-toc/10384178.epi