Giáo sư Lê Văn Lan: Tình yêu nước hay cảm hứng dân tộc chính là lịch sử

Ông biết các con, cháu mình đều kính phục, yêu mến nhưng chẳng ai theo ông cả. Ông không trách con trẻ bởi biết hoàn cảnh đã tạo ra những con người như thế. Trước kỳ thi tốt nghiệp cấp ba, khi môn sử một lần nữa là môn thi bắt buộc của các em, GS Lê Văn Lan chỉ rõ những bất cập trong cách dạy và học sử.

Tôi có được nụ cười của các em sau gần 20 năm gắn bó

PV: Cả cuộc đời của ông gắn với sử học, ông cũng là người ngay từ ban đầu đã gắn với các chương trình dành cho giới trẻ. Tôi tin những chuyến đồng hành ông đã đi cùng các bạn trẻ là muốn gửi đến cho các em những thông điệp về lịch sử nhiều ý nghĩa?

GS Lê Văn Lan: Trước Olympia tôi làm “Bảy sắc cầu vồng”, trước đó nữa tôi làm “SV96”. Mọi người cứ đùa hình dáng tôi không thay đổi, bí quyết là gì? Tôi thường trả lời, mỗi năm mình đều tăng thêm 1 tuổi nhưng vì càng ngày càng chơi với người trẻ (năm 1996 chơi với sinh viên, năm 1997-1998 chơi với học sinh cấp 3 (“Bảy sắc cầu vồng”, “Đường lên đỉnh Olympia”), đến năm 1999 chơi với các em cấp hai (“Kính vạn hoa”). Sang thế kỷ XXI mình chơi với các em cấp I (“Thần đồng Đất Việt”) nên được trẻ hóa chăng? Giờ chỉ còn các cháu mầm non là tôi chưa có điều kiện để chơi cùng. (cười)

PV: Thưa ông, ông đã làm việc với nhiều lứa tuổi như thế trong quãng thời gian gần 20 năm. Ông nhìn thấy tình yêu lịch sử trong giới trẻ qua các năm có sự thay đổi thế nào?

GS Lê Văn Lan:  Gần 20 năm đã thành chuyện, cứ mỗi lứa thi, kiến thức về lịch sử của các em càng ngày càng đuối. Tôi là người phụ trách ra câu hỏi và cũng là người giải đáp, cũng phải điều chỉnh theo hướng dễ dần nhưng lại phải làm theo hướng hấp dẫn hơn. Trước cứ sách giáo khoa mình “nã” ra nhưng sau mới phát hiện ra sách giáo khoa sai nhiều quá.

Tôi phát hiện ra rằng, lịch sử không chỉ là công cụ giáo dục tư tưởng mà lịch sử là một bộ môn khoa học và còn là nghệ thuật nữa. Đó là điều tôi phát hiện ra trong vòng 20 năm song hành cùng các bạn trẻ. Điều này tôi từng nói nhiều lần. Nếu biến lịch sử thành thứ vũ khí quảng bá cho Đảng, cho cách mạng, cái đó rất cần thiết, nhưng không chỉ nên thế. Bắt đầu từ 20 năm nay, câu hỏi cho các học sinh tốt nghiệp trung học và sinh viên đều tập trung vào lịch sử giai đoạn 1930-1945. Chúng ta có lịch sử dân tộc mấy nghìn năm, can cớ gì mà không nói gì đến mấy nghìn năm ấy mà chỉ nói về mấy chục năm gần đây? Tôi cho rằng, đó là khiếm khuyết lớn.

Bên cạnh chủ đích đó, điều quan trọng nữa, đã là công cụ giáo dục tư tưởng thì phải nói toàn lý thuyết, lý luận. Và lịch sử đang từ chỗ là một cơ thể hồng hào, quần áo đầy đủ, mũ mãng, cân đai thành một bộ xương khô đét. Đấy là lý do rất cơ bản khiến học sinh chán học sử.

PV: Và tâm hồn của các em ngày càng không được nuôi dưỡng bởi câu chuyện lịch sử của các em không được bù đắp. Ông có đồng ý thế?

GS Lê Văn Lan:  Nó không có cảm hứng nghệ thuật, không có tình cảm dân tộc, mà đó là vũ khí rất mạnh, thấm sâu vào máu của người Việt Nam, thế mà bây giờ ta lại tước đi cái đó của lịch sử. Từ đấy trở đi mỗi lần chơi với các bạn trẻ, tôi muốn làm một con én, biết rõ không kéo lại được cả mùa xuân nhưng cũng góp một phần nhỏ bé làm cho lịch sử trở nên hấp dẫn, sinh động và thích hợp với các em.

PV: Điều ông thấy mình đạt được sau ngần ấy năm gắn bó với thế hệ trẻ trong các game show đó là gì?

GS Lê Văn Lan: Là nụ cười của tuổi trẻ. Bây giờ tôi ra đường, 90% người đi đường nhận ra, họ có thể gọi tên, nhưng quan trọng là họ nhìn tôi và mỉm cười. Điều này giá trị vô cùng vì có nhiều người được nhận ra đấy nhưng họ không thể cười với được.

Con người đang trở thành máy móc

PV: Theo ông lịch sử có phải là bộ môn đáng chán ghét đến mức như hiện nay vì cách các em đang ứng xử với nó hay lỗi này thuộc về những người biến lịch sử thành bộ xương khô, thưa ông?

GS Lê Văn Lan:  Chắc chắn lỗi không ở bọn trẻ rồi, lỗi ở người lớn. Bởi ta đưa các em đi học, chúng nhận những điều ta đưa đến, chúng chịu sự giáo dục của ta. Khi chúng ta dạy các em, nếu gây hứng thú các em sẽ tiếp thu, nếu chúng cảm thấy không tiếp nhận được sẽ phản ứng bằng thái độ ghét bỏ.

PV: Xin ông cho biết, học lịch sử đang trở thành cuộc cách mạng trên báo chí, Bộ Giáo dục cũng có vẻ coi đây là cuộc cách mạng của chính mình khi mật độ đưa bộ môn này vào các kỳ thi quan trọng của học sinh ngày càng nhiều hơn. Nhưng ông có nhận thấy, khi đã trở thành thứ bắt buộc rồi thì nó sẽ càng lộ ra những điểm yếu của cách dạy lịch sử không?

GS Lê Văn Lan: Về mặt kinh tế chúng ta đang có chuyện không sửa sang được, ta giơ vũ khí hành chính ra để cấm. Hành xử trong giáo dục của ta cũng đang dùng cách đó. Không hấp dẫn được thì bắt buộc. Thực tế bắt buộc nó cũng có hiệu quả nhưng không nên coi cái hiệu quả đó là toàn bộ.

PV: Ông cảm thấy thế nào khi trong 20 năm qua, kinh tế có vẻ có phát triển với những khởi sắc nhất định nhưng câu chuyện dạy và học lịch sử càng đuối dần đi?

GS Lê Văn Lan:  Đây là tình trạng chung của toàn nhân loại. Tôi đã đi nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nền giáo dục và những nhà giáo dục các nước cũng đều có nhận thức ấy và nói với tôi như thế.

Bây giờ, ta mở tầm suy nghĩ rộng ra một chút. Nếu đọc cuốn “Đợt sóng thứ ba” (Alvin Toffler), ông ấy hình dung ra diễn biến của lịch sử thành ba đợt sóng. Đợt sóng thứ nhất là nền văn minh nông nghiệp, thời đó ta đang ở thời đại Hùng Vương với nền văn minh Đông Sơn, ta sêm sêm với nhân loại, với Ấn Độ, Ai Cập. Nhưng khi nhân loại chuyển sang đợt sóng thứ hai: công nghiệp hóa, hiện đại hóa với máy móc và cơ khí, Việt Nam tương đương với thế kỷ XVII, XVIII, ta vẫn cứ đứng ở đợt sóng thứ nhất, ta chậm một nhịp, một nhịp ở đây là cả một đợt sóng. Thế nên khi nhân loại sang đến đợt sóng thứ 3 tức đợt sóng của computer, của

Internet thì ta mới nhảy cẫng lên làm thế nào để lao vào đoàn tàu mà nó đã chạy qua trước mặt chúng ta lâu lắm rồi. Ta cố nhảy vào đó bằng cách đi tắt đón đầu. Nhưng đã đi tắt thì nhất định gặp chông gai, còn muốn đón đầu, đón không khéo thì nó sẽ đâm vào ta. Đó là tình cảnh của ta ở đợt sóng thứ ba. Mà đợt sóng thứ ba này nếu nói theo điều mà từ thời ông Khổng Tử bàn xa xưa lắm sẽ phải trải qua là đức trị, pháp trị, thì bây giờ nó là thời của kỹ trị.

PV: Ông nhìn thấy hạn chế lớn nhất ở thời đại này là gì thưa ông?

GS Lê Văn Lan:  Đã kỹ trị thì tất cả chỉ là máy móc. Tôi đã có lần trả lời rằng, máy móc là cơ khí, cơ khí sẽ sinh cơ tâm, nghĩa là mọi người đã biến thành máy hết.

Từ lâu lắm rồi nghệ thuật đã phản ánh điều này qua câu chuyện của Vua hề Charlie Chaplin (Sác lô). Đó là hình ảnh của một anh thợ máy suốt ngày chỉ vặn những cái đinh ốc khi máy đưa đến tay ông ấy (chỉ sự chuyên môn hóa), cuối cùng ông ta ra đường, gặp một phụ nữ ông ta cũng vặn. Đấy, lối sống của đợt sóng thứ ba này nó là như thế. Cho nên văn chương, nghệ thuật, tâm hồn, chủ nghĩa lãng mạn trở thành thứ xa xỉ trong thời bây giờ. Bây giờ người ta cần vật chất, máy móc, thi bây giờ cũng thi robocon. Có một thời Liên Xô cũ cũng nhận ra điều này, họ cố làm cân bằng trở lại xã hội bằng hình tượng nhà du hành cầm cành hoa bay vào vũ trụ. Nhưng đó chỉ là một hình tượng mơ ước, bởi bây giờ mọi thứ đã không diễn ra theo sự lý tưởng đó. Hiện thực đó của toàn nhân loại, nhưng nhân loại bây giờ đã ung dung ở đợt sóng thứ ba rồi, còn ta thì lại gấp gáp, cuống cuồng hội nhập vào thế giới đó thì ta sẽ gặp những vấn đề cay đắng hơn.

Đầu thế kỷ XX, Tú Xương, Tản Đà từng than thở “văn chương hạ giới rẻ như bèo”, nhưng đấy là đối với các ông ấy, nhưng công chúng vẫn đọc. Nhưng bây giờ in một cuốn thơ ra thì chỉ để tặng chứ chẳng ai bỏ tiền ra mua mấy thứ mà họ cho rằng vớ vẩn ấy? Ngay tình yêu cũng được nhìn nhận dưới phạm trù vật chất rồi. Bối cảnh đó không còn chỗ cho khoa học xã hội, khoa học nhân văn phát triển.

Bắt buộc cũng là cách sửa sai

PV: Theo ông những câu chuyện và cách thức mà cả xã hội đang cố làm để kéo lịch sử lại gần hơn với thế hệ trẻ, có cái gì là thực tâm, là niềm vui để khơi dậy trong ông sự hy vọng?

GS Lê Văn Lan: Không thể phủ nhận được tấm lòng của các vị ấy, vì ít ra họ cũng đang sống giữa lòng dân tộc. Chẳng qua những ung nhọt là do thời cuộc, thời thế mà họ vô thức đóng góp vào. Trong trường hợp này tôi muốn thanh minh cho ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục một chút, khi kỳ thi năm 2011, lúc điểm sử rất thấp, ông ấy bảo đó là chuyện bình thường. Tôi hiểu ý ông ấy là, cứ cái cơ chế này (đầu tiên khi đã có một chương trình, người ta sẽ dựa trên đó để làm sách giáo khoa, thế rồi các thầy cô dựa trên sách giáo khoa dạy học trò, thế là cả một hệ thống sai lầm từ A đến Z). Ông Bộ trưởng muốn nói trong bối cảnh có cả một hệ thống như thế, tất nhiên điểm kém về lịch sử là bình thường. Tôi chắc ông ấy không nỡ lòng nào nói rằng chuyện điểm kém lịch sử cũng bình thường theo hướng không có gì phải lo. Câu chuyện đó đã giúp người đứng đầu một ngành nói ra được cái điều rằng, đã phát hiện ra rằng chúng ta có một sai lầm có hệ thống.

PV: Thưa ông, một khi sai lầm đã được phát hiện ra, ông mong muốn điều gì?

GS Lê Văn Lan: Phải sửa. Sự bức xúc, lo lắng của dư luận tạo áp lực để những người cầm cân nảy mực phải sửa. Và tôi biết họ đã vào cuộc rồi đấy. Giờ ta chỉ có thể hy vọng họ sẽ làm tốt, chỉ hy vọng thôi còn làm thế nào lại tiếp tục chờ. Mà cả biện pháp bắt buộc cũng là một cách sửa. Khi đã bắt buộc thi thì các em phải cố học và lúc này thì không chỉ học những sai lầm có hệ thống nữa mà học cả cái họ đang sửa đây, các em cố gắng học đi. Ý nghĩa của việc bắt buộc theo tôi là như thế.

PV: Công cuộc cách mạng này cần bao nhiêu thời gian nếu làm nó một cách thực tâm, thưa ông?

GS Lê Văn Lan: Không định năm tháng, tuổi tác cho cuộc cách mạng này được vì nó tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà trong số các yếu tố ấy có những yếu tố chỉ mới là lộc non nhú mầm. Nếu không tin thì có thể chúng ta sẽ làm mất, có thể là yếu tố định thời lượng, thời gian cho cuộc cách mạng này. Cho nên chúng ta chỉ có thể hy vọng.

Và ngay cả trong tiến trình cách mạng ấy chúng ta cũng không thể ngay lập tức mình thấy mọi tiến trình mình đi là đúng, mình vừa phải làm cách mạng, vừa phải sửa sai cả những mầm non mới nhú, bởi vì có thể những mầm non ấy cũng có sai lầm.

PV: Tôi có một người cháu học lớp 3, cháu có thể kể vanh vách tên về Lý Thường Kiệt, Ngô Quyền, Lê Lợi như những cái tên quen thuộc, nhưng khi tôi hỏi Lý Thường Kiệt là ai thì cháu không biết. Có cách nào để dạy cho con trẻ không cần nhớ được cả chục cái tên theo cách học vẹt mà có khi chỉ cần nhớ được một cái tên mà cái tên ấy có ý nghĩa với các em không, thưa ông?

GS Lê Văn Lan: Phải làm cho trẻ em khi muốn nhớ đến điều gì đó, ai đó, phải thấy vui đã. Chẳng hạn như một nhân vật bạn vừa nhắc tới, Lý Thường Kiệt, tôi đã thấy mấy cuốn theo kiểu kể truyện tranh, có họa sĩ vẽ rất đẹp. Tại sao những cuốn sách đó chưa đến tay  các em? Có phải vì việc đọc hiện nay đang bị xem nhẹ quá? Tôi tin vào cái tâm muốn hiểu lịch sử của mọi người nhưng câu chuyện trẻ em không biết lịch sử không thể trách nền giáo dục mà phải trách cả cha mẹ, xã hội.

Tôi cũng xót xa nghĩ rằng thời buổi bây giờ trí tuệ ít quá, người ta mê tín dị đoan thì rất nhiều, người ta lao vào các hành động rất hăng hái. Nếu để phần nào đấy hạt nhân trí tuệ, trí thức, sự hiểu biết trong cấu trúc cơ thể và tinh thần của mỗi người thì tốt quá. Tiếc rằng nhiều người chưa nhận ra cái đó. Chẳng hạn người ta ùn ùn đi lễ Bà Chúa Kho nhưng chỉ đi lễ để vay tiền bà ấy (cười). Ở việc này ta hoàn toàn có thể thêm vào đó những tri thức trí tuệ, giới thiệu cho họ biết Bà Chúa Kho là ai, trí tuệ của việc đi lễ ấy là gì thì có phải tốt không?

Bây giờ có một làn sóng của nhiều gọi là đi về thế giới tâm linh. Nhưng thực ra họ có tìm được sự tĩnh lặng để đi về thế giới đó hay không lại là chuyện khác. Nếu có trí tuệ họ sẽ tìm được điều đó. Phải làm cho sử học đúng là sử học, tự bản thân lịch sử là một nghệ thuật, nó tạo được xúc cảm thiêng liêng, thần thánh. Tình yêu nước hay cảm hứng dân tộc chính là lịch sử.

PV: Xin cảm ơn GS về cuộc trò chuyện này!

Thái Linh (thực hiện)

Nguồn: edu.go.vn/e-tap-chi/tin-bai/7/87/149/12131/giao-su-le-van-lan-tinh-yeu-nuoc-hay-cam-hung-dan-toc-chinh-la-lich-su.html