Trong nhiều năm, tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Võ Quang Nhơn chuyên giảng dạy văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Từ năm 1981 trở đi ông đảm nhận thêm giáo trình văn học Đông Nam Á. Về chuyên đề, từ năm 1982, ông đã trình bày bài giảng về thể loại sử thi anh hùng; từ năm 1985, ông đã lên lớp về các trường phái nghiên cứu văn học dân gian.
Thời trai trẻ, Võ Quang Nhơn đã trải qua cuộc đời công dân – chiến sĩ ở chiến trường Tây Nguyên. Năm 1948, sau một thời gian hoạt động trong phong trào thanh niên ở địa phương, người trí thức – đảng viên trẻ tuổi Võ Quang Nhơn đã “chân đạp mây bay, tóc vờn gió núi” đến với bà con Cheo Reo (Cheo Reo trước đây thuộc tỉnh Đắc Lắc, nay đổi thành huyện Ayunpa thuộc tỉnh Gia Lai) trong cương vị chính trị viên huyện đội. Ở đó ông đã đóng khố đi phát nương, vót chông giết giặc và cùng bà con vui chơi ca hát lúc bẫy chim trên rẫy, đón tết Mnămthun trong buôn, nghe già làng kể chuyện trong nhà rông. Nhìn chàng trai có nước da ngăm ngăm, môi dày tóc cứng, bà con Tây Nguyên quên đó là một thư sinh tốt nghiệp trường trung học Thuận Hoá mà cứ ngỡ chàng là con của Bok Klăng hay hậu duệ của mấy đời Đăm Săn cậu, Đăm Săn cháu… Chính tình cảm máu thịt với mảnh đất Tây nguyên ấy đã truyền cho ông tri thức và cảm hứng để biên soạn các tuyển tập Đăm Săn Thí (1972), Truyện cổ các dân tộc miền Nam (1976), Truyện cổ Ca tu (1978), Truyện cổ Cơ ho (1984, 1988) và đặc biệt là Dân ca Tây Nguyên, 1976, 1986).
Dù đó là những tư liệu do ông sưu tầm hay tuyển chọn lại từ những tác phẩm đã được ấn hành từ trước, người đọc vẫn nhận diện được dấu ấn của Võ Quang Nhơn trong đó. Chẳng hạn Chàng Đăm Thi là tập truyện kể cho thiếu nhi được ông biên soạn theo đơn đặt hàng của Nhà xuất bản Kim Đồng. Nhưng ông không “sao y bản chính” mà kể lại một cách sinh động. Câu chuyện vừa thể hiện được sắc thái cua rừng núi Tây Nguyên, vừa phù hợp với tư duy của lứa tuổi học trò. Hoặc đọc Dân ca Tây Nguyên, dù là người khắt khe nhất cũng phải thừa nhận sự lao động nghiêm túc và sự am hiểu tinh tường của Võ Quang Nhơn trong trường hợp này. Tập sách được tuyển chọn từ nhiều nguồn tư liệu. Một số ít do người khác sưu tầm và được ông tuyển chọn khá kỹ về nội dung và chất lượng nghệ thuật. Một số rất lớn tác phẩm do người khác sưu tầm và ông phối hợp dịch hoặc hiệu đính. Ở đây cũng có cả bài do chính ông sưu tầm hoặc dịch ra tiếng phổ thông. Trong thực trạng đội ngũ các nhà khoa học về văn học dân gian ở nước ta hiện nay, đặc biệt là đối với những người có học vị và chức danh khoa học như Võ Quang Nhơn, việc làm này là rất hiếm hoi. Chúng ta hãy đọc Bài ca phát rẫy của dân tộc Mạ do ông sưu tầm và dịch. Dù là người miền núi hay người miền xuôi, người nông thôn hay người thành phố, chúng ta đều có thể hoà nhâp vào không khí lao động có tính chất đặc thù của một cư dân sống bằng kinh tế nương rẫy:
Mau mau ta dọn rừng
Ta đốt sạch từng cây đã phát
Do sưu tầm trung thực và am tường bản ngữ, Võ Quang Nhơn đã truyền cho người đọc, người nghe không chỉ sự thông báo công việc (đốt rừng), mà cả sự cảm nhận tinh tế về đặc điểm tư duy nghệ thuật của con người còn ở hình thái kinh tế – xã hội chưa cao:
Hàng hàng cây ăn lửa
Lửa ăn rừng, lớp lớp nổ bụi cây thấp
Lửa ăn đồi, lớp lớp nổ bụi lau cao
Lửa đốt lao nhao bầy mối
Lửa nổ, ché trong nhà cũng nổ
Có lẽ bởi những giá trị đó mà một số bài dân ca đã lọt vào mắt xanh của nhà nghiên cứu Pháp là Mireile Gaiseu khi tuyển thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam (Chants – Poèmes dé Montest des Eaux) do UNESCO xuất bản tại Paris năm 1986.
Bên cạnh nguồn cảm hứng chính dành cho các tuyển tập truyện cổ và dân ca các dân tộc Tây Nguyên như là sự đền đáp ơn trả nghĩa đối với những người đã cưu mang ông trong thời kỳ kháng chiến chín năm, Võ Quang Nhơn còn mở rộng tầm nhìn của mình tới cả Rọi – Dân ca Tày (Nhà xuất bản Dân tộc Việt Bắc, 1972). Đây là kết quả lao động của ông sau chuyến đi điền dã Cao Bằng năm 1977. Xa hơn, ông còn với tới Bốn cây hoa Chăm pa (Truyện cổ Lào, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1970) và Tráng sĩ Hông Kinh Tôn, (Truyện cổ Triều Tiên, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1989). Những tập truyện này vừa giúp độc giả Việt Nam làm quen với di sản văn học dân gian các nước láng giềng ở Đông Nam Á và Bắc Á, đồng thời cũng nằm trong định hướng nghiên cứu sau này của ông.
Nói chung, việc sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn tác phẩm văn học dân gian vừa có tác dụng phục vụ độc giả vừa là một bộ phận hữu cơ trong công việc của nhà khoa học về văn học dân gian. Đã từ rất lâu Giáo sư Iu.M. Xôcôlốp đã viết rằng: “Cần phải coi là cổ hủ rồi cái thời kỳ mà nhà nghiên cứu văn học dân gian lại có thể không đồng thời là nhà sưu tầm, khảo sát trực tiếp xem phônclo đang tồn tại trong đời sống hiện thực như thế nào” (Dẫn theo sách Sáng tác dân gian Nga, Nxb Đại học, Mátxơcơva, tr 353. Tiếng Nga). Xét từ góc độ đó, Võ Quang Nhơn quả là nhà văn học dân gian đích thực. Mỗi truyện kể, mỗi bài dân ca do ông chuyển đến người đọc, người nghe không phải chỉ bằng câu chữ khô cứng trên trang sách mà nóng hổi hơi thở của cuộc sống và sự sôi động của sinh hoạt văn hoá nơi buôn làng, xóm bản. Chính từ thực tế đó mà những trang viết về lý luận của ông sau này không những bị nhiễm màu xám mà con tươi xanh như cây đời.
Công trình lý luận của Võ Quang Nhơn có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn cả là những bài viết Sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên Việt Nam (Tạp chí Văn học, số 4 năm 1987, tr 5 – 21). Bài viết này là sự tóm tắt có phát triển của luận án phó tiến sĩ mà ông bảo vệ thành công ngày 22-3-1982 tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cũng có thể nói được rằng bài viết này là kết tụ tri thức ông tích luỹ trong những năm ở chiến trường và ở nhà trường. Ở hai trang đầu của bài viết ông giới thiệu tư liệu và tình hình nghiên cứu sử thi Tây Nguyên từ năm 1929 đến 1982. Ở đó chúng ta thấy Võ Quang Nhơn không những là người am hiểu tinh tường sử thi từ cửa miệng các già làng mà còn bao quát một khối lượng tư liệu sưu tầm và các công trình nghiên cứu rất lớn bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Nga.
“Việc phát hiện có tính bùng nổ hàng loạt tác phẩm sử thi anh hùng đó đã thu hút sự quan tâm của đông đảo nhà nghiên cứu ở nhiều ngành khác nhau” (Từ đây những chỗ trong ngoặc kép mà không có chú thích là nguyên văn trong bài viết của Võ Quang Nhơn) trong đó có ông. Vấn đề nổi lên trước tiên là vấn đề xác định thể loại tác phẩm. Về vấn đề này cho đến nay chưa được xác định rõ ràng, có nhiều ý kiến chưa nhất trí. Sau khi thể hiện sự không tán thành đối với các thuật ngữ Bài ca (Đào Tử Chí), trường ca (Bùi Văn Nguyên – Đỗ Bình Trị), anh hùng ca (D.Antômacki và G.Cônđôminát), Võ Quang Nhơn “khẳng định rằng các khan, hmôn của các dân tộc Tây Nguyên là những tác phẩm sử thi anh hùng”. “Tiếp theo các vấn đề xác định thể loại là vấn đề xác định thời điểm ra đời của các sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên”. Sau khi phản bác ý kiến của Lêôpôn Xabachiê đã cho rằng bản khan Đăm Săn là một sử thi tiêu biểu của người Êđê ở Tây Nguyên có thể ra đời vào quãng thế kỷ thứ XVII”, ông nêu lên giả thiết rằng: “Khan Đăm Săn và nhiều khan khác của người Êđê muộn nhất cũng ra đời vào quãng thế kỷ XII đến thế kỷ XIV. Đây là thời điểm mà nhiều yếu tố của lớp văn hoá từ bên ngoài được thu hút và bổ sung cho lớp văn hoá có sẵn của cư dân bản địa”.
Cho đến nay những luận điểm khoa học trên đây của Võ Quang Nhơn chưa có người phản biện. Riêng những ý kiến của ông về nội dung xã hội của sử thi anh hùng Tây Nguyên đã làm nảy sinh vấn đề tranh luận. Ông cũng thừa nhận đây là: “một vấn đề khá lý thú nhưng cũng không kém phần phức tạp cho nên đến nay các ý kiến giải thích của nhiều nhà nghiên cứu cũng chưa hoàn toàn thống nhất với nhau”. Sau khi nói đến nội dung nội dung cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển xã hội cộng đồng của các công xã buôn làng ở Tây Nguyên, ca ngợi công cuộc lao động và cuộc sống ấm no hạnh phúc của cộng đồng, ông còn cho rằng sử thi anh hùng phản ánh những quá trình vận động biến chuyển lớn trong xã hội các dân tộc ở Tây Nguyên. Ông viết: “Có những sử thi như khan Đăm Săn phản ánh công cuộc đấu tranh của thế lực mới trong xã hội, muốn vùng lên đấu tranh xoá bỏ tục lệ cũ cản trở bước tiến của nó, như Đăm Săn đã vùng vẫy liên tiếp muốn thoát khỏi tục lệ “nối dây mẫu hệ” để đi tới nơi chàng muốn”. Luận điểm này trùng với một bài viết của Chu Xuân Diên cũng đăng trên tạp chí của viện Văn học từ những năm 60 (lúc đó tên là tập san Nghiên cứu Văn học). Để khẳng định vững chắc hơn luận điểm của mình, Võ Quang Nhơn luận chiến với một quan điểm “cho rằng không phải Đăm Săn chống lại tục lệ nối dây mà Đăm Săn phấn đấu để xác lập địa vị tù trưởng giàu mạnh của mình”. Theo Võ Quang Nhơn, nếu Đăm Săn chịu lấy Hơbhí hoặc Hơnhí thì hiển nhiên chàng trở thành một tù trưởng giàu mạnh. Thế thì cần gì phải phấn đấu nữa. Hơn nữa sau khi lấy Hơbhí, Hơnhí, Đăm Săn đã thực sự trở thành một tù trưởng giàu mạnh, và như vậy là đã đạt được mục đích. Thế thì tại sao chàng còn bỏ vợ lại, còn chống trời, đi chinh phục nữ thần mặt trời để thiệt thân? Đến đây những luận chứng của Võ Quang Nhơn đã hoàn toàn thuyết phục được độc giả về nội dung xã hội của sử thi anh hùng Tây Nguyên. Cuối cùng, ông phân tích hệ thống thi pháp độc đáo để thể hiện nội dung đó qua các hình tượng mỹ lệ, ngôn từ, hình ảnh, vần, nhạc của câu thơ cũng như phương thức trình diễn của thể loại này. Đây là khu địa đàng của Võ Quang Nhơn và cũng là vườn cấm đối với một số người khác vì ít ai vượt qua được hàng rào ngôn ngữ. Để kết thúc bài viết của mình, Võ Quang Nhơn đã hướng tới phương pháp loại hình học và kêu gọi các đồng nghiệp “cần đặt các đối tượng nghiên cứu đang được đề cập trên bình diện so sánh loại hình với sư thi các dân tộc có liên quan, nhất là ở khu vực Đông Nam Á”.
Đến đây chúng ta thấy Võ Quang Nhơn đã vượt lên trên tầm của người thư ký trung thành của bà con dân tộc Tây Nguyên, ghi chép lại các câu ca, chuyện kể để trở thành nhà lý luận văn học và văn hoá dân gian. Ông không còn là con nai, con sóc chạy nhảy trên nương rẫy mà hoá thân thành con chim ưng bay lượn trên bầu trời, phóng tấm mắt của mình khắp bốn phía “trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu” để có cái nhìn vừa cụ thể vừa bao quát. Khả năng ấy của ông được thể hiện rõ nét hơn trong tập giáo trình đại học Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983, 475 trang). Cho đến thời điểm hiện nay, tập sách này vẫn là cái mốc lớn trong việc giới thiệu một cách hệ thống di sản văn học và văn hoá các dân tộc ít người ở Việt Nam. Vì vậy ý nghĩa của nó đã vượt ra ngoài phạm vi của một cuốn sách giáo trình dùng trong nhà trường. Nó đã trở thành sách tra cứu cho những ai có nhu cầu tiếp nhận đối tượng nói trên. Như Võ Quang Nhơn đã viết ở những trang mở đầu “Giáo trình văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam được xây dựng theo phương hướng chung của lịch sử văn học Việt Nam, đồng thời xuất phát từ các đặc điểm riêng của các dân tộc để nêu lên những đóng góp của văn học các dân tộc ít người vào nền văn học chung của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam”(tr 10). Nhưng việc thực hiện mục tiêu đó không dễ bởi lẽ văn học dân gian của 50 dân tộc ít người nói theo ngôn ngữ của nhà thơ Nông Quốc Chấn là “một vườn hoa nhiều hương sắc mà mảnh đất ươm trồng nó hết sức đa dạng.
Để vượt qua khó khăn đó, Võ Quang Nhơn đã tìm đến với phương pháp so sánh loại hình – lịch sử để tìm ra và lý giải “mối quan hệ chặt chẽ giữa cái chung và cái riêng trê cơ sở lấy cái chung của cả cộng đồng Việt Nam làm nền tảng, đồng thời chú ý đúng mức đến những sắc thái riêng của các dân tộc ít người (tr 10 – 11). Từ định hướng khoa học và phương pháp thực hiện như trên Võ Quang Nhơn đã triển khai công trình thành 7 chương (ngoài phần Mở đầu và Kết luận). Hai chương đầu của tập sách dành cho phần giới thiệu “Những đặc điểm văn hoá – xã hội của các dân tộc ít người ở Việt Nam”. Trên cơ sở tổng hợp những thành tựu của ngành văn học và văn hoá dân gian cũng như các khoa học tiệm cận, đặc biệt là ngành dân tộc học, Võ Quang Nhơn đã cung cấp cho độc giả một bức tranh khái quát về thành phần tộc người (dựa trên đặc trưng ngôn ngữ) và những đặc điểm lịch sử – xã hội, văn hoá của họ. Những tri thức nhập môn này là tiền đề cần thiết để chúng ta khám phá di sản văn học và văn hoá dân gian phong phú, đa dạng của các dân tộc ít người ở Việt Nam. Từ chương III, Võ Quang Nhơn đã lần lượt giới thiệu với độc giả từng thể loại: thần thoại, truyện cổ tích, thơ ca dân gian, sử thi, anh hùng ca, truyện thơ. Nội dung của chương viết về thần thoại phần nào chúng ta đã biết qua bài báo của ông đăng trên Tạp chí Văn học số 4 năm 1977: “Thần thoại và truyền thuyết các dân tộc ít người”. Mặc dầu vậy người đọc vẫn bị ông thôi miên để nhập vào thế giới huyền ảo, nhiều tầng bậc của thần thoại các dân tộc. Nếu như trước đây nhiều nhà văn học dân gian cho rằng thần thoại Việt Nam không có hệ thống thì đến nay Võ Quang Nhơn (tiếp nối Cao Huy Đỉnh) đã chỉ ra rằng: Qua nhiều thế hệ lưu truyền, bổ sung, dần dần thần thoại các dân tộc được hoàn chỉnh và hệ thống hoá khá quy mô”. Đặc biệt trong đó có thần thoại Việt – Mường (hay người Việt thời cổ) không những được hệ thống hoá mà còn phát triển thành sử thi đồ sộ. Hệ quả của luận điểm trên đã dẫn Võ Quang Nhơn đến một nhận định khá lý thú: “Truyện bố Rồng mẹ Âu Cơ phản ánh việc phân chia địa vực của trú cộng đồng bộ Lạc Việt trong buổi sơ khai thông qua tình tiết năm mươi con lên núi và năm mươi con xuống biển. Nhưng trăm người con ấy bao gồm những thành phần nào thì truyện chưa nói rõ. Vấn đề này đã được thần thoại Trứng diếng trong hệ thống mo Đẻ Đất đẻ Nước của người Mường lý giải khá rõ ràng và lý thú.
Thực ra đây không phải là phát hiện lớn về khoa học, nhưng ý nghĩa của luận điểm ấy đã đặt ra trước các nhà nghiên cứu văn học và văn hoá dân gian Việt Nam một vấn đề có tính phương pháp: Nghiên cứu văn học và văn hoá dân gian người Việt (Kinh) không thể tách rời, cô lập với văn học dân gian và văn hoá dân gian các dân tộc ít người ở Việt nam và ngoài biên giới Việt Nam hiện nay. Điều này đã được VÕ Quang Nhơn nhận thức và thể hiện không chỉ ở những trang viết về thần thoại mà cả khi viết về Truyện cổ tích.Tính chất sinh động của chương này được giải thích bởi sự phong phú của tư liệu mà ông đã dày công sưu tầm, biên soạn và cho công bố từ trước khi bộ giáo trình ra đời. Điều cần bàn ở đây là sự phân loại của ông đối với truyện cổ tích. Một mặt ông thừa nhận: “Về mặt thể loại, bộ phận truyện cổ tích lịch sử khá gần gũi với truyền thuyết. Gần đây giới khoa học quốc tế có khuynh hướng xếp bộ phận ấy vào loại truyện cổ tích theo như các phân loại quen thuộc” (tr 141). Rõ ràng ở đây chúng ta thấy ông có phần nào lúng túng trong khi phân loại. Sự lúng túng được giải thoát khi ông viết bài tiểu luận “Một số vấn đề về truyện cổ tích các dân tộc ít người ở Việt Nam” in ở đầu sách Tuyển tập truyện cổ tích các dân tộc ít người ở Việt Nam, Tập 1 Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1988, tr 5 – 19. Ở đó, ông thừa nhận: Vấn đề phân loại văn học dân gian nói chung và phân loại truyện cổ tích nói riêng còn có nhiều cách lý giải và xử lý chưa thống nhất, chưa phù hợp với yêu cầu khoa học (tr 8) và ông đã điều chỉnh lại: “Trong công trình này, chúng tôi tiến hành phân tích và sắp xếp tác phẩm văn học dân gian theo một hệ thống kết cấu như sau:
1. Truyện cổ tích thần kỳ
2. Truyện cổ tích loài vật
3. Truyện cổ tích sinh hoạt
Đồng thời với truyện cổ tích, chúng tôi có biên soạn và giới thiệu truyền thuyết, một bộ phận đáng kể trong kho tàng truyện cổ dân gian các dân tộc ít người từ trước đến nay chưa sưu tầm và giới thiệu một cách có hệ thống (tr 12). Ở đây, Võ Quang Nhơn đã nêu một tấm gương sáng cho các nhà khoa học trẻ về quá trình tiếp cận chân lý khi bàn về nội dung xã hội của sử thi Tây Nguyên, ông đã luận chiến đầy hứng thú với quan điểm bất đồng. Nhưng khi bàn về cách phân loại truyện cổ tích thì ông lại tự luận chiến với chính mình để thay đổi quan niệm phân loại. Điều này không dễ tìm thấy ở các nhà khoa học khác. Về nội dung chương “Sử thi anh hùng”, chúng ta đã có dịp bàn đến nhân bài báo của ông đăng trên Tạp chí Văn học số 4 năm 1987. Điều mà chúng ta mong muốn thêm ở ông là sự hoàn thiện những lý thuyết về sử thi cũng như cơ cấu hợp lý về sử thi Việt Nam (chứ không chỉ dành riêng cho sử thi anh hùng). Nếu công trình trên đây là một chuyên luận hay một chuyên đề thì người viết có quyền khai thác sâu một khía cạnh này mà bỏ qua một khía cạnh khác. Nhưng đó là giáo trình đại học dùng để giảng dạy cho sinh viên khoa Ngữ văn thì yêu cầu sư phạm đòi hỏi ông phải cung cấp một bức tranh chung về sử thi (bản chất thể loại, phân loại các sử thi cổ điển trên thế giới) và diện mạo sử thi Việt Nam (sử thi thần thoại, sử thi anh hùng…). Thực ra thì chất liệu cho những vấn đề đó đã tồn tại rải rác trong các bài viết và cả trong các giáo trình của ông, chắc là nó sẽ được hoàn thiện khi giáo trình tái bản. Chúng ta hy vọng đến lúc đó một số khiếm khuyết khác của giáo trình sẽ được bổ sung. Chẳng hạn như phải thêm một chương về tục ngữ, câu đố của các dân tộc ít người, tách truyền thuyết, truyện cười thành một thể loại riêng. Nói đến những đóng góp của Phó Giáo sư Võ Quang Nhơn đối với văn học và văn hoá dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam không thể không nhắc đến một số bài báo ngắn, tác chiến kịp thời của ông nhằm “biểu dương, cổ vũ những nhân tố tích cực và phê phán lên án những biểu hiện tiêu cực, độc hại trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ” (Nghị quyết hội nghị lần thứ tư (từ ngày 4 đến 14/1/1993) của BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khoá 7 về công tác văn hoá văn nghệ những năm trước mắt, tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số 3, 1993, tr 4).
Đó là các bài Văn học dân gian các dân tộc thiểu số dưới con mắt nghiên cứu thực dân (1974), Văn học dân gian các dân tộc ít người trong âm mưu hoạt động văn hoá của đế quốc Mỹ (1991), Tiếng nói chống chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của đại gia đình các dân tộc Việt Nam qua văn học dân gian (1983). Những bài viết này ra đời trong những giai đoạn và bối cảnh chính trị nhất định của đất nước. Chúng thể hiện ý thức công dân của nhà khoa học Võ Quang Nhơn. Cho đến nay, nhiều luận điểm trong các bài báo đó vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Chúng ta không thể không phê phán sự thiếu khách quan, thiếu trung thực, có khi còn cố tình làm sai lạc văn bản của một số học giả kiêm giám binh, giám mục hay quan cai trị người Pháp khi sưu tầm, công bố di sản văn hoá dân tộc, văn hoá dân gian các dân tộc ít người ở Tây Nguyên và Tây Bắc Việt Nam. Chẳng hạn Metơrơ (H.Maitre), một viên giám binh đã từng lên đàn áp vùng đồng bào các dân tộc Êđê, M’nông ở Đắc Lắc năm 1891, khi dịch dân ca cổ của người Êđê đã xen câu hát như sau: “Con cái lớn làm việc cho Pháp” (Dẫn theo các bài viết của Võ Quang Nhơn); Đuốcnơ (J. Dournes) khi dịch bài dân ca nói về nhân vật Xơrơđen, tổ tiên của người Xrê đã xen vào những câu như “Con có muốn đi với người An nam không? Được mặc áo, mặc quần, mang giầy; như thế vẫn chưa đẹp. Con hãy đi với người da trắng. Con sẽ có đủ thứ, lại thêm súng ống, xe cộ nữa” (Dẫn theo các bài viết của Võ Quang Nhơn). Tiếp theo đó còn có đoạn bà mẹ khuyên Xơđơren như sau: “Con chớ đánh nhau với họ nữa. Như thế không tốt, phải sống hoà thuận với người da trắng. Con cưới một cô gái da trắng và ở luôn với họ…” (Dẫn theo các bài viết của Võ Quang Nhơn). Linh mục kiêm sĩ quan người Pháp là Xavina viết cuốn Lịch sử người Mèo (Histoire des Miaos) năm 1914 đã chép truyện dân gian H’Mông vào khuôn khổ kinh Cơ đốc giáo. Truyện Tố Nđôtố tề biến thành truyện “chúa giáng thế”, chúa sinh ra trời đất trong bảy ngày, chúa sinh ra các vì sao, mặt trời, mặt trăng. Truyện “Phay hồ sớn” biến thành truyện “Tháp Ba ben” với sự phân tán loài người… Những chi tiết tương tự có thể dẫn ra rất nhiều. Việc sử dụng các tư liệu văn học, văn hoá dân gia các dân tộc ít người để phục vụ cho chính sách cai trị còn kép dài đến cả thời kỳ đế quốc Mỹ và Nguỵ quyền miền Nam. Vì vậy những bài viết trên đây của Võ Quang Nhơn ra đời là cần thiết và có ý nghĩa tích cực. Tuy nhiên đến nay khi quân viễn chinh Mỹ và Pháp đã thất bại, đất nước ta sạch bóng quân thù, chúng ta có thời gian và điều kiện nhìn nhận lại những gì cần tiếp tục phê phán và những gì có thể chắt lọc, sử dụng được. Với cách nhìn trong sự vận động như vậy, chắc ông Võ Quang Nhơn cũng như đa số chúng ta sẽ đánh giá cao hơn những trang sưu tầm, khảo sát văn hoá Mường của Quidiniê (J. Cuisinier) và cả những trường đoạn trong sử thi Đăm Săn do công sứ Xabachiê (L. Sabatier) để lại. Cũng với cách nhìn “thoáng” như vậy chắc ông Võ Quang Nhơn sẽ không nghiêm khắc lắm với những người vận dụng lý thuyết thoại vị (mythemes) của C. Lévi Strauss trong các công trình nghiên cứu về văn hoá dưới thời Mỹ Nguỵ[1]. Dù có những mong muốn thêm như vậy, trước sau người đọc cũng vô cùng yêu quý Võ Quang Nhơn ở sự thành tâm, ở sự trong sáng của một trí thức đã nhiều năm theo Đảng. Sự quý trọng đó càng được tăng lên nhiều lần đối với những ai gần gũi Võ Quang Nhơn, chứng kiến sự tận tuỵ của ông trong hàng nghìn buổi lên lớp ở trường đại học, hướng dẫn hàng trăm luận văn tốt nghiệp cho sinh viên và hàng chục luận án tiến sĩ cho nghiên cứu sinh.
Ngày 27/1/1995 nhà giáo, nhà khoa học Võ Quang Nhơn đã rời bỏ thế giới trần gian đầy duyên nợ. Nhưng Đảng, Nhà nước, và giới khoa học không bao giờ quên ông. Ngày 1/9/2000, Chủ tịch Nước Cộng học Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký quyết định tặng ông giải thưởng Nhà nước về công trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Không chỉ vong linh ông ở cõi vĩnh hằng mà cả giới nghiên cứu văn học dân gian trong và ngoài nước cùng hoan hỉ trước phần thưởng cao quý này.
Lê Chí Quế
Nguồn: www.khoavanhoc.edu.vn
[1] Gần đây Võ Quang Nhơn có dịch bài báo Cấu trúc và hình thức của C. Lévi Straus đăng trên tạp chí Văn hoá dân gian năm 1992, số 2.