Gieo đức gặt phúc

PGS Nguyễn Đức Thừa, vợ và con gái đầu lòng Anh Thư năm 1962

CÁNH CHIM ĐẦU ĐÀN…

Cố PGS Nguyễn Đức Thừa sinh năm 1921, là con trai của quan tri huyện Nguyễn Đức Đàn ở Bình Định. Lớn lên, ông vào học Trường trung học Khải Định (Quốc Học Huế), sau đó, ra Hà Nội học Trường cao đẳng Khoa học. Năm 24 tuổi, ông về dạy học ở Trường trung học Khải Định. Thấy em trai giỏi giang, người anh thứ tư của ông – quản lý một đồn điền cà phê ở Brao (Bảo Lộc) – dự định gửi em sang Pháp học nhưng chưa kịp làm thủ tục, thì chàng thanh niên Nguyễn Đức Thừa đã thoát ly gia đình, theo Việt Minh cướp chính quyền tại Huế. Ông gia nhập giải phóng quân và làm trưởng đồn quân giải phóng Phan Đình Phùng tại Huế. Năm 1946, ông ra Hà Nội tham gia kháng chiến, làm Trưởng phòng Nghiên cứu sản xuất hóa chất và chất nổ ở Nha Nghiên cứu kỹ thuật quân giới. Ông là một trong 21 nhà khoa học đầu tiên của Việt Nam được gửi sang Liên Xô đào tạo. Hiểu được trọng trách của mình, ông đã tốt nghiệp bằng kỹ sư loại ưu.

Năm 1956, ông là một trong những người đầu tiên được giao nhiệm vụ thành lập Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội. Ban đầu, ông là Chủ nhiệm khoa Mỏ – luyện kim. Cùng với các đồng nghiệp và sinh viên của mình, ông có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học giá trị như Nhiệt luyện than antraxit thay thế than cốc dùng vào lò đúc, Lò cao nhỏ cho vùng giải phóng miền Nam… Theo đánh giá của Trung tâm Nghiên cứu di sản các nhà khoa học Việt Nam và bảng ghi công của ĐH Bách Khoa Hà Nội, ông là cánh chim đầu đàn của ngành luyện kim; là người đặt nền móng cho chương trình đào tạo kỹ sư luyện kim Việt Nam. Dù thời cuộc khó khăn nhưng để có kết quả tốt nhất cho việc đào tạo lớp trẻ, ông vẫn liên tục đưa sinh viên đi đến những vùng mỏ đang bị Mỹ ném bom hay ra tận Khe Sanh, Quảng Trị, nơi địch chiếm đóng để thực hiện những nghiên cứu về mỏ, địa chất… Năm 1974, ông được đề bạt làm Hiệu phó Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội.

PGS Nguyễn Đức Thừa và con gái Anh Thư ở Liên Xô

NHÂN DUYÊN MUỘN MẰN

Mãi cầm súng, cầm bút, đến năm 40 tuổi, ông Thừa mới nhớ ra nhiệm vụ… lấy vợ. Trước khi du học, ông từng trọ ở đường Thành, thường theo người bạn tên Nguyễn Văn Lễ về nhà anh ở phố Hàng Điếu chơi. Đến khi về Cục Quân giới, làm trưởng phòng, ông lại thân với một cán bộ kỹ thuật là Nguyễn Quang Hưng, mới hay ông Hưng là em trai ông Lễ. Năm 1959, người bạn học chung ở Liên Xô nhắn ông lên Bắc Giang để giới thiệu một “mối” đẹp người đẹp nết. Gặp cô giáo Nguyễn Thị Kim Dung, năm đó 25 tuổi, là Hiệu trưởng Trường cấp I xã Trí Minh, huyện Yên Dũng, ông bất ngờ vì cô lại là em gái của hai người bạn ấy! Nghe người chồng của bạn ngợi khen về tài năng và chí hướng của ông Thừa, cô giáo Dung đã thầm khâm phục. Khi gặp, thấy ông hiền lành, khiêm tốn, cô càng cảm mến, gật đầu cùng ông “tìm hiểu”.

Thế nhưng, vì ông Thừa là cán bộ tập kết, lại can tội… đẹp trai, giỏi giang nên mẹ của cô giáo Dung cứ lo cho tương lai con gái. May nhờ hai người anh trai đảm bảo tư cách, nên năm 1960, ông bà tổ chức lễ “tuyên bố”. Cưới xong, cô giáo Dung vẫn ở Bắc Giang dạy học, thầy Thừa công tác tại ĐH Bách Khoa Hà Nội. Bà Dung nhớ lại: “Cái thời ấy nên thơ lắm. Một tháng mới gặp nhau một lần nên vừa về tới Hà Nội là chồng đã biên thư cho vợ. Lá thư đầu, anh ấy kể chuyện đường về Hà Nội, hỏi thăm vợ, lá thứ hai thế nào anh cũng báo tin ngày nào sẽ lên thăm…”.

36 năm chung sống nhưng tính ra ông bà chỉ thực sự được gần gũi nhau khoảng 10 năm. Bà Dung kể: “Khi sinh con gái đầu lòng, tôi về Hà Nội, ở khu tập thể ĐH Bách Khoa, nghĩ là để chồng vợ gần nhau, nhưng lúc thì anh đi công tác, khi thì tôi đi học chuyên môn. Chưa kể, mấy lần đi sơ tán, tôi phải dẫn học trò của mình đi tận Hà Tây, anh thì đưa sinh viên lên tới Cao Bằng… Anh Thừa thường nói với tôi và các con: “Mình có cơ hội ở lại miền Bắc để làm việc, học tập, thì phải làm việc gấp hai, ba lần để xứng đáng với sự hy sinh của những người ở lại miền Nam”. Cả cuộc đời, nhà tôi nói luôn đi với làm”.


Bà Dung chụp cùng con gái Anh Thư và hai cháu ngoại

QUẢ NGỌT

Ở cương vị một nhà quản lý giáo dục, nhưng TS Nguyễn Thị Anh Thư (Hiệu phó Trường ĐH Saigon Tech) vẫn cho là mình chưa qua nổi bố. Ở chị luôn đầy ắp những trăn trở về nền giáo dục nước nhà. Chị nói, đó không phải chỉ là nỗi niềm của riêng chị, mà còn là mong mỏi và mơ ước của bố chị. Theo chị, nhà khoa học, nhà trí thức phải là cánh chim báo bão, dự báo được thời cuộc và phải biết tiên phong. Chị nói: “Bố được đào tạo cách tôi 40 năm, nhưng những gì bố suy nghĩ và làm được luôn tân tiến. Nhìn lại những công trình khoa học đồ sộ mà bố đóng góp cho ngành luyện kim, tôi không hiểu vì đâu một người làm được khối công việc như vậy mà vẫn có thời gian để tâm sự cùng con, học với con và hơn cả là hiểu được con. Hồi nhỏ, tôi có một bí mật là luôn mặc cảm mình xấu xí, chưa bao giờ kể điều đó với ai, nhưng chẳng hiểu sao bố tôi biết được và luôn động viên tôi, “trông không đẹp, nhưng mặn mà, có duyên…”.

PGS Nguyễn Đức Thừa và nhà giáo Nguyễn Thị Kim Dung đã gặt hái được “quả ngọt” khi cả hai cô con gái đều nối nghiệp bố mẹ. Cô con gái thứ hai của ông bà là nữ PGS-TS Nguyễn Thị Minh Tú, hiện là giảng viên Khoa Hóa, ĐH Bách Khoa, Hà Nội.

Tháng 5/2013, thạc sĩ kinh tế Nguyễn Thị Minh Hà, cháu ngoại của cố PGS Thừa nhận bằng cao học thứ hai về nghệ thuật ở Mỹ. Ba người cháu còn lại, đều học hành giỏi giang. Tuy nhiên, TS Anh Thư nói: “Rất tiếc, bố bị chứng bệnh parkinson hành hạ, y học chưa thể chữa trị giúp ông. Tiếc nhất là bố tôi mất vào thời internet chưa phổ biến. Là một nhà khoa học, ham sáng chế như bố mà ra đi khi chưa một lần lướt net và trải nghiệm cùng nó quả là một thiệt thòi lớn!”.

Thế nhưng, bà Dung lại nói: “Cuộc sống không có gì hoàn hảo, tại sao phải đòi hỏi mình có tất cả? Vì nhà tôi bệnh, tôi mới sớm nghỉ hưu, chăm ông, có dịp chuyện trò, gần gũi với ông. Tôi hiểu, nhà tôi không tham vọng nhiều như thời trẻ nữa, những ước muốn của ông gắn với gia đình, làm sao cho vợ đỡ vất vả khi chăm mình, làm sao cho hai con gái có gia đình ấm yên, hạnh phúc… Có hai con gái là kỹ sư tốt nghiệp từ nước ngoài về, nhà tôi đã hạnh phúc lắm rồi. Nhà tôi là người chồng thủy chung, hiền lành và … “thừa đức” để cho con tôi, cháu tôi bây giờ hưởng phúc!”.

Nghi Anh

Nguồn: phunuonline.com.vn/gia-dinh/gia-dinh-yeu-dau/gieo-duc-gat-phuc/a98595.html