Mẹ ông tên Phạm Thị Bổng (1889-1970), cụ là một cô gái nông thôn mù chữ, không học, ở nhà chủ yếu đi làm ruộng, dệt vải. Tuy nhiên, cụ có một trí nhớ rất tốt, chỉ học qua truyền khẩu mà cũng biết rất nhiều thứ. Ngày còn bé, chính Nguyễn Đình Cống cũng đã từng đọc cho mẹ nghe nhiều cuốn truyện như Thạch Sanh, Tống Trân, Cúc Hoa, Hoàng Trù hoặc như truyện Kiều “Cụ vừa ngồi dệt vải vừa nghe. Tôi thắp ngọn đèn ở bên cạnh, tôi đọc xong rồi bà nhẩm lại thế mà bà thuộc, bà thuộc nhiều lắm!”, ông kể.
Lần chia tay thứ nhất, năm 1947 quân Pháp quay lại đánh chiếm Quảng Bình tấn công vào cửa Nhật Lệ, cửa Sông Gianh và nhanh chóng đưa chiến tranh lan rộng khắp các huyện thị. Cùng năm ấy, bố ông – cụ Nguyễn Đình Vò bị giặc Pháp bắt và bắn chết trong một lần đi làm nhiệm vụ. Đến năm 1949, chiến tranh chống Pháp tại tỉnh Quảng Bình lên cao, mẹ con ông phải tản cư lên chiến khu ở huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình). Sau 1 năm lánh nạn, mẹ con ông hồi cư về quê lúc này vẫn đang bị tạm chiếm. Trong năm tiếp đó, Nguyễn Đình Cống chỉ ở nhà, không vào trường sở, hằng ngày đi chăn trâu chăn bò và chơi cùng lũ bạn, thậm chí có lần ông bị giặc bắt vào rừng vác tre về xây đồn bốt.
Trong hoàn cảnh trường lớp không có, nếu muốn đi học phải ra Đồng Hới – cũng là vùng bị tạm chiếm, hoặc lên vùng chiến khu Tuyên Hóa, vì là gia đình cách mạng nên ông quyết định lên chiến khu học. Mới chừng 13 tuổi thôi nhưng ông đã phải một mình lên chiến khu với một ít tiền và vài vật dụng mang theo. “Trong thời kỳ bị Pháp tạm chiếm, không biết trời xui đất khiến thế nào mà mẹ lại khuyên tôi đi học tiếp. Bởi vì tôi và bạn bè đều ở trong vùng tạm chiếm, nhà tôi không phải là nhà giàu nhất trong làng mà còn nhiều gia đình khác giàu hơn, họ cũng có con cái trạc tuổi tôi nhưng không ai được đi học tiếp”, GS Nguyễn Đình Cống kể lại.
Thế nhưng mẹ ông nói “Thôi con ạ! Đi chơi, chăn trâu chăn bò lắm rồi hư người đi. Chịu khó mà đi học!”. Được đi học, nhưng phải lên Chiến khu một mình, mặc dù còn băn khoăn nhưng cậu bé Nguyễn Đình Cống vẫn quyết định lên chiến khu học. Một đứa trẻ con lần đầu tiên phải rời xa mẹ, xa gia đình, vì vậy cậu bé Nguyễn Đình Cống đã bật khóc, vừa đi vừa khóc vừa ngoảnh lại “Thế nhưng không biết sao dù khóc tôi vẫn cứ đi”, ông kể. Và như vậy ông lên đường, mẹ ông chỉ kịp sắm sửa cho ít tiền bạc, ít nắm cơm.
Lúc đầu, Nguyễn Đình Cống đi cùng với một bà chị, bà ấy được người bà con gửi một số báo lên cho người chồng đang hành nghề bán thuốc Bắc ở chiến khu. Vì thiếu giấy báo để gói thuốc nên phải nhờ người quen dưới xuôi gom góp giấy báo cũ khắp nơi trong đó đa số là các tờ báo tiếng Pháp. Vừa mới bước lên đò, đi được một khúc sông thì qua đồn bị lục soát, phát hiện trong hành lý bà có báo tiếng Pháp nên bà bị bắt vì nghi ngờ Việt gian. Từ lúc đó, thằng trẻ con Nguyễn Đình Cống “chính thức” một mình bơ vơ giữa sông nước, không ai quen biết, không biết đi đâu về đâu vì đã không còn người dẫn đường.
Với GS.TS Nguyễn Đình Cống, những kỷ niệm về mẹ sẽ đi bên ông suốt đời
Chiếc đò chèo cả ngày, đến buổi chiều khi mặt trời đã dần khuất núi, cậu bé Nguyễn Đình Cống ra đứng trước đò cảm thấy thấy bơ vơ giữa trời nước mênh mông. Trời xui đất khiến, từ xa Nguyễn Đình Cống thấy có một bến sông mà ông mang máng nhớ rằng bến sông này ông đã đến một lần và ở đó có một người quen. Ngay lập tức, Nguyễn Đình Cống nhờ người lái đò dừng lại bến sông, thật may mắn khi ông tìm được người quen và đây cũng chính là vùng chiến khu mà ông cần tìm đến.
Lần thứ 2 từ biệt mẹ là lúc ông chuẩn bị đi thi Đại học ở ngoài Hà Nội. Năm 1956, Nguyễn Đình Cống tốt nghiệp trường phổ Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh) và quyết định thi Đại hoc. Tuy nhiên, trước đó ông đã nghe loáng thoáng sau sự kiện Cải cách ruộng đất, nhà ông ở quê bị tịch thu, mẹ bị đuổi ra ở một túp lều ngoài làng. “Tôi suy nghĩ một điều, tôi đi Hà Nội không biết bao giờ mới về, vì vậy tôi có nên liều trốn về gặp mẹ, thăm mẹ một lần cuối cùng trước khi ra đi không? Tôi đang băn khoăn như vậy thì tìm được tờ báo Nhân dân mà tôi cho rằng đó là bùa hộ mệnh. Tờ Nhân dân có đăng một bài xã luận về chính sách của Đảng Lao động đối với con em các gia đình địa chủ đang đi học. Trong đó có nói rõ, bố mẹ địa chủ bóc lột nhân dân đâu không biết, nhưng con em đặc biệt là những em còn bé đang đi học thì đấy là những người sẽ tham gia xây dựng đất nước sau này. Vì vậy, các nơi không được phân biệt đối xử, đừng gán ghép cho tầng lớp địa chủ, phải tạo điều kiện cho các em học hành, đối xử đàng hoàng”, GS Nguyễn Đình Cống kể lại khi bắt gặp “bùa hộ mệnh” là tờ báo Nhân dân.
Sau khi có được tờ báo ông lên đường về quê ngay hôm đó. Từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình ông phải đi bộ mất 3 ngày. Về đến nhà, ngay lập tức ông đến thăm mẹ, dọc được ông còn một ít tiền nên cũng mua được bơ gạo đưa mẹ nấu ăn. Ông nói với mẹ rằng “Con về đợt này để tạm biệt mẹ con đi!”. “Khi quyết định ra đi tôi gần như tay trắng, chỉ đủ tiền tàu xe, một ít để ăn đường trong khi đó ở Hà Nội không có một người quen biết, không hề có một chỗ dựa. Vậy nhưng tôi vẫn bảo mẹ rằng, mẹ cứ yên chí, con lên đường đi lập nghiệp”, ông nói thêm.
Mẹ ông nấu cơm xong vừa dọn ra thì 2 dân quân du kích xông vào bắt ông đi. Lúc đó, ông chỉ kịp nói với mẹ rằng “Mẹ yên chí, không ai làm gì được con đâu!”. Ông bị đưa lên Ủy ban, bị tra khảo với hoàng loạt các câu hỏi như: Vì sao dám về làng, tại sao không trình báo? Sau một hồi tranh luận, ông đem tờ báo ra và nói rõ tinh thần mà bài báo đã đề cập, vì vậy dân quân du kích mới thả ông đi. Ngay khi ra khỏi Ủy ban, Nguyễn Đình Cống vừa đi vừa chạy vì ông sợ có ai đó đứng sau mình và chĩa thẳng súng vào người. Gặp bà con trên đường chạy, ông chỉ biết nhờ bà con nói lại với mẹ ông rằng ông đi rồi, ông thoát rồi, không sao cả, đi đây.
“Tôi đi như chạy và vừa ngoảnh lại xem có ai đuổi theo mình không cho đến khi ra tới phà Ròn”, ông nhớ lại. May mắn, lúc đó trên phà có một chiếc xe Com-măng-ca chở 2 người sĩ quan tỉnh nên ông xin được đi nhờ xe. “Tôi sực nhớ trong các câu chuyện được đọc, quan sẽ giúp học trò đi thi nếu giải được câu đối. Tôi bảo với họ rằng tôi là học trò đi thi và xin đi nhờ xe. Họ hỏi, mi đi thi mô? Giấy tờ đâu? Tôi liền rút thẻ học sinh cùng giấy triệu tập đi thi Đại học đưa cho họ xem”, GS Nguyễn Đình Cống kể. Thời kỳ đó một học sinh được đi thi Đại học là hiếm nên 2 sĩ quan tỉnh cho đi nhờ và đó cũng chính là lần thứ ông rời khỏi gia đình một mình tiếp tục hành trình bôn ba kiếm sống, học tập.
Lần thứ nhất ra đi vì lời động viên của mẹ nhưng lần thứ hai thì ông đã suy nghĩ một cách chín chắn. Giờ đây, khi nhớ lại hai thời khắc đó mà GS Nguyễn Đình Cống cho rằng là những mốc lịch sử quan trọng trong cuộc đời mình, ông vẫn thấy bồi hồi. Bởi ngày đó, để đưa ra những quyết định ông phải rất dũng cảm, ông cảm thấy vui mừng khi đã có những sự lựa chọn đúng đắn mặc dù khi đó tuổi đời lẫn sự trải đời còn quá non trẻ.
aiufa[oiuf a[ỳa
Trình Sỹ Anh Dũng
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam