GS.NGND Hoàng Như Mai: Vị trưởng lão cuối cùng của ngành Văn đã ra đi!

Giáo dục là lĩnh vực ông gắn bó suốt cả cuộc đời. Ông bắt đầu tham gia giảng dạy từ năm 1943, ở Trường Trung học tư thục Đông Hải (Hải Dương). Việc nhận lên lớp rất tình cờ và có phần ngẫu hứng, thể theo lời mời của một người bạn. Tưởng rằng việc này chỉ mang tính chất nhất thời, không ngờ đó là cái duyên quá bền chặt. Đất nước ta từ những năm bốn mươi của thế kỷ trước trở đi có biết bao  biến động dữ dội. Hai cuộc chiến tranh vệ quốc thực sự  là hòn đá thử vàng đối với nhân dân ta nói chung, đặc biệt là đối với giới trí thức nói riêng.

Cũng như nhiều nhà trí thức chân chính khác, GS Hoàng Như Mai – xuất thân trong một gia đình quan lại cao cấp – đã đứng vững, đã vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của tình thế. Đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, được lãnh đạo  tỉnh Thái Bình mời làm Hiệu trưởng trường trung học Phan Thanh, ông đã cùng các giáo sư, các văn nghệ sĩ nổi tiếng như Nguyễn Tường Phượng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Hoàng Công Khanh… bình tĩnh giảng dạy trong vòng vây ngày càng thắt chặt của giặc Pháp. Năm 1950, công cuộc kháng chiến còn rất khó khăn, ông đã cùng các đồng nghiệp chấp nhận cảnh ăn đói mặc rét, xây dựng thành công một trong vài ba cỗ máy cái của ngành Giáo dục lúc đó: Trường Sư phạm Việt Bắc. Cứ thế, bất chấp mọi gian khổ, thách thức, ông đã lần lượt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình – khi trên bục giảng, lúc trong cương vị lãnh đạo – ở Trường Sư phạm trung cấp trung ương, Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Tổng hợp (sau tách ra là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) Thành phố Hồ Chí Minh.     

Từ năm 1985 trở đi, ông chủ yếu đóng góp vào việc đào tạo bậc sau đại học, và mười lăm năm gần đây ông vui vẻ lĩnh nhận chức trách Hiệu trưởng một trường trung học tư thục lớn của Thành phố Hồ Chí Minh: Trường Trương Vĩnh Ký. Nhìn lại chặng đường dài bảy thập kỷ qua, biết bao người được học ông đã trở nên những trí thức chân chính, hữu dụng. Không ít người đã vĩnh viễn nằm xuống trên các chiến trường ác liệt. Nhiều người đang là các nhà khoa học hàng đầu của các chuyên ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn của nước ta. Tất nhiên, đây là công sức đào tạo của một tập thể giáo sư, nhưng phần cống hiến của riêng ông quả không nhỏ.   

Nghĩ về GS Hoàng Như Mai cũng như về một số vị bậc thầy khác, tôi hay vẩn vơ tự hỏi: động lực nào đã khiến các ông có thể chủ động và vững vàng tiến bước trên đường đời và đường khoa học có không ít gian truân đó? Nói riêng về GS Hoàng Như Mai, tôi thấy có ba phương diện đáng chú ý. Trước hết, đó là lí tưởng sống rất rạch ròi như ông đã tâm sự khi lại tạm biệt Thủ đô Hà Nội, cùng đồng nghiệp và sinh viên khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán lên vùng núi rừng heo hút Thái Nguyên năm 1966:

Ra đi lần nữa biệt kinh thành
Mái tóc mười phần chín hết xanh
Trách nhiệm – gia đình: đôi gánh nặng
Văn chương nghệ thuật: sợi tơ mành
Hai mươi năm trước dân không nước!
Hai chục năm sau biết có mình?
Đã quyết đem thân phò nghĩa cả
Niềm riêng chạnh nghĩ luống buồn tênh.

Có nhiều điều đáng ngẫm, đáng bình về bài thơ rất hàm súc này. Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điểm: là con dân Việt Nam ai mà chẳng yêu nước, nhưng đặc biệt đối với những người đã từng chịu đựng cảnh ngộ “dân không nước”, lòng yêu nước ấy sâu sắc lắm. Một khi đã được hít thở trong bầu khí quyển độc lập, họ quyết không chấp nhận lại mang cái nhục mất nước. Chính vì thế, cái “niềm riêng” nếu “chạnh nghĩ” đến có thể vẫn làm nhà trí thức này buồn – chúng ta tôn trọng nỗi buồn sâu kín nào đấy của ông- nhưng thái độ sống của ông thật dứt khoát “Đã quyết đem thân phò nghĩa cả”.

Thứ hai, tôi nghĩ đến bản chất nhân hậu của GS Hoàng Như Mai. Sự vô cảm, lạnh lùng hoàn toàn xa lạ đối với ông. Trong các mối quan hệ, đặc biệt với bè bạn và học trò, ông luôn đối xử rất có tình. Vì vậy, các thế hệ học trò phục ông về tài năng,nhưng quan trọng hơn, họ quý trọng về đức độ. Còn nhớ, những năm kháng chiến chống Mĩ, nhiều sinh viên Khoa Ngữ văn được gửi về miền Nam tham gia chiến đấu trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chuyện “Đi B” lúc bấy giờ được tổ chức hết sức bí mật. Người ra đi hạn chế tối đa việc tiếp xúc, gặp gỡ người thân. Vậy mà nhiều người trước khi vượt Trường Sơn vẫn tìm mọi cách để gặp được thầy, trước hết để nói lời tạm biệt, rồi để nhận ở thầy những lời dặn dò, khuyên bảo. Vào đến chiến trường, cùng với những lá thư gửi cho cha mẹ, vợ con, họ không quên viết thư tâm sự cùng thầy. Được biết, đến nay GS Hoàng Như Mai vẫn trân trọng giữ gìn những bức thư phai màu mực ấy.

Tháng 10-1986, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mời ông về dự lễ kỉ niệm 30 năm thành lập Khoa. Gặp lại bạn cũ, trò xưa, ông hỏi han để rõ tình hình anh em trong những năm chiến tranh ác liệt. Nhiều người xúc động trước những dòng thơ giàu sức ám ảnh của ông

Thầy cô người mất người còn,
Sinh viên mấy nấm mồ chôn chiến trường
Ba mươi năm một chặng đường,
Về đây có cả buồn thương vui mừng.
Nguyện xin đốt nén hương chung,
Những ai đã khuất hãy cùng lại đây.

(Trở về Khoa Ngữ văn)

Thứ ba, ông rất có ý thức đảm bảo cân đối hai hoạt động dạy và viết. Chỉ có điều, khác với nhiều đồng nghiệp, GS Hoàng Như Mai không chỉ viết nghiên cứu phê bình mà còn làm thơ, viết kịch, dựng chân dung nhân vật, viết hồi kí và cả truyện cho thiếu nhi nữa. Hai con người nghiên cứu và sáng tác lẽ ra khá tách bạch, rạch ròi nhưng ở ông lại có sự hòa hợp, bổ sung, tác động với nhau một cách tích cực. Nhiều bài thơ, kịch bản của ông được hình thành và ẩn chứa mọt chiều sâu văn hóa, một tầm suy tư triết lí. Ngược lại, nhiều bài nghiên cứu văn hóa, văn học của ông vẫn đảm bảo sự sắc sảo, già dặn của tư duy luận lí, đồng thời lại thể hiện tính ngẫu hứng, phóng khoáng, không hàn lâm kinh viện.

Không kể mấy cuốn trong tủ sách “Vỡ lòng” do NXB Hàn Thuyên in cuối năm 1945, giúp người đọc có những kiến thức “nhập môn” về chính trị, bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, ông tập trung nghiên cứu về văn hóa, trong đó văn học chiếm phần chủ yếu. Là nhà giáo tâm huyết với nghề, ông viết nhiều về giáo dục ( Giáo dục hướng thiện, Suy nghĩ về công việc đào tạo con người mới trong tương lai…). Hiểu rõ mối quan hệ khăng khít giữa Ngữ và Văn, ông để tâm suy nghĩ về những vấn đề của ngôn ngữ (Chữ quốc ngữ và sự phát triển của văn học). Thuở thanh xuân, ông gắn bó sâu sắc với ánh đèn sân khấu, thậm chí có tâm nguyện sống chết với kịch trường nên dù thủy chung với sự nghiệp trồng người, nhưng ông vẫn có mối liên hệ thân tình với các nghệ sĩ hàng đầu của kịch nói và cải lương. Vì vậy, GS Hoàng Như Mai đã có nhiều bài viết và chuyên khảo về hai loại hình sân khấu này. Riêng về lĩnh vực cải lương, có thể nói ông là một trong những người am hiểu sâu sắc hơn cả. Xin lược kể vài công trình đầy đặn của ông: Nhà soạn kịch  cải lương Trần Hữu Trang (1968), Trần Hữu Trang-soạn giả ca kịch cải lương (1982), Nhận định về cải lương (1986), Giới thiệu sân khấu cải lương (1986), v.v…

Trong lĩnh vực văn học, do kiến văn quảng bác, ông có điều kiện viết về văn học Việt Nam cũng như văn học phương Tây. Nghiên cứu văn hóa, văn học Việt Nam trung đại, ông có những suy nghĩ sâu sắc về Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản… nhưng thành công chủ yếu của ông là những bài viết về văn học Việt Nam hiện đại, nhất là hai chặng đường phong phú, phức tạp 1930 – 1945 và 1945 – 1975. Những bài viết của ông về thơ gây ấn tượng cho người đọc khá sâu đậm. Ông không thiên về lí luận mà nặng về cảm thụ. Cách viết của ông chân phương mà tinh tế, giúp người đọc nhận biết được quy trình cấu tứ, trình bày ý tưởng của tác giả, đồng thời lĩnh hội được cả những chi tiết nghệ thuật lung linh ngời sáng của tác phẩm. Có được điểm mạnh rất riêng này có thể vì nhà nghiên cứu đồng thời là nhà thơ Hoàng Như Mai đã đồng cảm, đồng điệu với các thi nhân. Cũng có thể vì trong nhiều chục năm qua, ông đã thực sự khẳng định năng lực thẩm, bình của mình qua hàng ngàn buổi nói chuyện thơ ca trên rất nhiều địa phương trong cả nước.

Công trình quy mô dày dặn hơn cả của GS Hoàng Như Mai là tập giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (1945 – 1960). Sách được Nhà xuát bản Giáo dục in năm 1961, gồm 24 chương, 510 trang, chủ yếu phục vụ việc dạy và học cho các khoa Ngữ văn ở đại học.

Nghiên cứu một cách hệ thống về 15 năm văn học đương đại là một hoạt động khoa học cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn cao nhưng quả là không đơn giản, nhất là với tư cách một công trình đột phá, mở đầu. Giá trị chủ yếu của công trình khoa học này là ở hai phần trên: sáu chương đầu tiên (Chương I – VI) nghiên cứu về văn học trong hơn một năm bản lề (19/8/1945 đến 19/12/1946). Mười ba chương tiếp theo (Chương VII – XIX) trình bày bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đúng là toàn cảnh, vì nhà nghiên cứu đã bao quát nhiều phương diện như thể loại ( thơ, văn xuôi, kịch, lí luận phê bình – nghiên cứu), tác giả và tác phẩm tiêu biểu.         

Dù ngòi bút nghiên cứu đôi lúc hơi thiên về xã hội học – một nhược điểm phổ biến của tình hình nghiên cứu trước 1975 – nhưng nhìn chung, GS Hoàng Như Mai đã có những nhận định thỏa đáng, đã trân trọng đúng mức thành quả lao động nghệ thuật của các văn nghệ sĩ – chiến sĩ, những người đã  sẵn sàng đổ máu để có những vần thơ đuổi giặc, những trang văn thấm đẫm tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

Có thể xem hệ thống những bài viết của ông về các nhà khoa học lớn, các nhà giáo dục nổi tiếng và các văn nghệ sĩ tiêu biểu như: Dương Quảng Hàm, Hoàng Minh Giám, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Huy Thông, Trần Văn Giàu… là vùng giao thoa của hai lĩnh vực nghiên cứu và sáng tác. Các bài viết thường rất ngắn gọn, vừa có sức lôi cuốn của những kỉ niệm cụ thể, trực tiếp và tươi rói, vừa có sự thuyết phục của những ý kiến nhận định, đánh giá về tài năng, nhân cách của những nhân vật khả kính một cách tinh tường, xác đáng. Hơn đâu hết, mảng bài này thể hiện đầy đủ hơn cả tấm lòng của tác giả – một tấm lòng nhân hậu, tình nghĩa thủy chung như đã nói ở trên.

Cũng nằm trong mạch cảm xúc nặng ân tình ấy, không thể không nhắc đến mấy bài viết của GS Hoàng Như Mai về những người ruột thịt của mình: người cha – một ông tuần phủ, mang tâm sự “di thần” cố giữ mình cho trong sạch trong một bối cảnh xã hội nhiễu nhương, ngầu đục; bà mẹ – một phụ nữ nông dân ít chữ nhưng giàu tình, suốt đời chỉ vì chồng vì con; người anh – một mẫu hình nhà giáo đáng kính trọng, cốt cách thanh cao, như thuộc lớp sĩ phu cuối cùng tiêu biểu cho tinh hoa của truyền thống.

Đó là tâm sự riêng chăng? Có lẽ thế, nhưng điều quan trọng là nó được người đọc chia sẻ, cảm thông, giúp chúng ta hiểu thêm tác giả cũng như cảm nhận được vẻ đẹp tinh thần của một thế hệ quá vãng.

Kịch là lĩnh vực sở trường của GS Hoàng Như Mai. Như trên đã nói, ngay từ thuở thanh niên ông đã gắn bó với kịch trường, lúc đầu là trong biểu diễn. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông chuyển hướng sang sáng tác. Ngay từ vở đầu tay, ông đã có dụng ý tìm cảm hứng từ sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc: Tiếng trống Hà Hồi, viết năm 1948 và công diễn ngay năm đó trong các mái đình cổ kính ở Tiên Lữ, Kim Động (tỉnh Hưng Yên) và Tiên Hưng, Đông Quan, Phụ Dực (tỉnh Thái Bình.)

Những biến cố lớn lao, những nhân vật tiêu biểu của dân tộc tiếp tục là nguồn cảm hứng sáng tạo cho kịch  tác gia Hoàng Như Mai. Năm 1957, ông viết Dòng sông biên giới. Năm 1982, ông hoàn thành kịch bản Vẽ chân dung cụ Đỗ Đức Hiểu.

Dòng sông biên giới mang dáng vẻ đặc biệt: kịch thơ. Giờ đây chúng ta quen với kịch nói, nhưng trước năm  1975 có một thời kịch thơ rất phát triển. Nhưng ai yêu loại hình nghệ thuật này chắc chưa thể quên Huyền Trân công chúa (Nguyễn Nhược Pháp), Hận Nam Quan (Hoàng Cầm), Trần CanLí Chiêu Hoàng (Phan Khắc Khoan), Trầm Hươmg đình, Mã Ngôi pha (Thế Lữ), Vân Muội, Trương Chi (Vũ Hoàng Chương), v.v…

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, bên cạnh sự phát triển của kịch cương, kịch lửa trại, kịch một màn… dòng chảy của kịch thơ vẫn thuận chiều, đem đến cho khán giả, những thành tựu sáng tác mới: Về Hồ, Bến nước Ngũ Bồ (Hoàng Công Khanh), Tình xuân và chiến sĩ (Phan Khắc Khoan), Hoàng Văn Thụ (Trần Huyền Trân),v.v…

Là kịch, nên kịch thơ cũng có những mâu thuẫn, xung đột; có nút thắt để đưa nội dung kịch tới cao trào; có mở nút một cách tinh tế để đem lại sự thỏa mãn cho người xem, người đọc. Thế nhưng điểm khác biệt chủ yếu của loại hình văn học kịch này là lời thoại không phải bằng ngôn ngữ nói thông thường, mà là thơ. Khi trình diễn, lời thơ có ngắt nhịp khi trầm hùng hào sảng, khi tha thiết giục giã. Chính nhịp điệu tiết tấu và âm vực cao thấp của giọng đọc, giọng ngâm đã giúp các nghệ sĩ bộc lộ khả năng biểu cảm trong diễn xuất, tạo nên hiệu ứng thẩm mĩ trong tâm lí khán giả.

Dòng sông biên giới mang đặc điểm chung nhất của loại hình văn học kịch đặc biệt này. Con sông có thật – sông Gianh- đã từng chứng kiến nỗi đau chia cắt trong non hai thế kỷ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, giờ đây trong kịch của Hoàng Như Mai, lại tiếp tục chứng kiến nỗi đau thương của hai nhân vật hư cấu – chàng trai Kim Âu, con trai quan Đô thống, một trọng thần của Nguyễn Ánh và cô gái Ngọc Quỳnh, con nuôi của ông quan này. Họ không chấp nhận cảnh nội chiến nồi da xáo thịt mà Nguyễn Ánh đã chủ trương. Trận quyết chiến để tiêu diệt nhà Tây Sơn mà Nguyễn Ánh chuẩn bị phát động từ bờ nam sông Gianh, trực chỉ ra Bắc đã khiến nhân dân hai bên bờ sông náo loạn. Dù yêu nhau, nhưng họ hiểu rõ “người trượng phu có trách nhiệm với sơn hà”, nên Kim Âu đã vượt sông Gianh  “ra Bắc, xây dựng nền bình trị”, Ngọc Quỳnh ở lại. đợi chờ. Tâm trạng khắc khoải, u uất của cô đã lên đến cao trào:

Ta ngồi đây, bên dòng sông biên giới
Nghe tiêu tan cả thể xác tâm hồn
Trong mênh mông, hiu quạnh của chiều hôm
Đường hai ngả, một mối sầu vời vợi
Nam Bắc bao giờ hòa một khối
Cho lành mọi số kiếp đau thương?

Màn nhung khép lại, ánh đèn sân khấu tắt dần, nhưng người xem tiếp tục bị ám ảnh bởi nỗi đau tột cùng của dân tộc. Nỗi đau thời Trịnh – Nguyễn, thời Tây Sơn – Nguyễn Ánh. Và từ sau hiệp định Genève, một lần nữa lại tái diễn cảnh Bắc – Nam đôi ngả. Khác chăng, lúc này dòng Hiền Lương trở thành “Dòng sông biên giới”. “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”. Tâm nguyện của toàn dân cũng như của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành nguồn cảm hứng để Hoàng Như Mai say mê viết và hoàn thành rất nhanh tác phẩm này.

Tiếng trống Hà Hồi (kịch dài ba màn viết năm 1947) là tác phẩm “để đời” của Hoàng Như Mai. Tác phẩm thể hiện một trang sử bi tráng của dân tộc ta. Đạo quân xâm lược 29 vạn tên của triều đình Mãn Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy mượn danh nghĩa phù Lê diệt Tây Sơn sang xâm chiếm nước ta. Chúng gây ra vô vàn tội ác khiến nhân dân Thăng Long cũng như các vùng chúng chiếm đóng khổ cực trăm bề. Trừ một số ít nhà khoa bảng hèn nhát, còn tất cả mọi người từ các nho sĩ đến người lao động đều căm ghét giặc nước, hướng về Quang Trung Nguyễn Huệ, sẵn sàng đứng lên trả thù nhà đền nợ nước.

Vở kịch được cấu trúc chặt chẽ, xung đột kịch chân thực và căng thẳng, chủ đề sâu sắc và thiêng liêng. Đúng như Maurice M. Durand và Nguyễn Trần Huân đã ghi nhận: “Tiếng trống Hà Hồi, bi kịch ba màn, được khán giả Việt Nam rất hoan nghênh” (Introduction à la litterature vietnamienne. GP Maison neuve et Larose et UNESCO 1969).

Điều đặc biệt là vở kịch không chỉ được công diễn và hoan nghênh ở vùng giải phóng. Một số nghệ sĩ yêu nước đã dũng cảm dựng và cho diễn cả ở Hà Nội đang bị Pháp chiếm đóng (31/12/1950 và 1/1/1951).    

Thật là thú vị, vở kịch lại được dựng, được diễn ở Sài Gòn cuối năm 1966- khi ấy “Hòn ngọc Viễn Đông” còn đang bị đạo quân viễn chinh Mỹ thống trị. Những diễn viên không chuyên của Đoàn sinh viên học sinh Sài Gòn và đoàn kịch Gió Khơi đã phối hợp trình diễn trong sự hưởng ứng, đón nhận nồng nhiệt của những người xem trẻ tuổi. Một lần nữa, tác phẩm đã có tác dụng động viên mạnh mẽ mọi người – đặc biệt là thanh niên, sinh viên, học sinh – đứng lên đánh đuổi giặc nước.

Còn về thơ ca , những ai gần ông mới biết, đây là thú vui tao nhã hết sức thường xuyên của nhà trí thức này. Thơ với ông như một mảnh vườn riêng tĩnh lặng, chủ yếu để ông thầm thì tâm sự với chính mình, chừng mực nào đó để “đối diện đàm tâm” với những người tri kỷ. Ông làm thơ nhanh và nhiều, nặng tính ngẫu hứng. Làm xong để đấy. Nhiều khi bạn bè, học trò nhớ thay cho ông. Trao cho nhau cuộc đời (1993) gồm 52 bài thơ, thực ra chỉ chiếm một tỉ lệ không đáng kể trong toàn bộ sáng tác thơ của ông. Hoàng Như Mai làm thơ từ thuở thiếu thời, khi 11 – 12 tuổi. Rất đáng ngạc nhiên, “chú bé thi sĩ” ấy đã sớm có những câu thơ nặng tình, trưởng thành trước tuổi:

…Nhưng bạn sinh ra với tấm lòng
Dễ đau vì những sự nghe, trông
Linh hồn vương vấn linh hồn nước
Đọc sử hưng vong lệ nhỏ dòng.

Nhạy cảm, buồn sâu lắng, nhưng vượt lên tất cả là luôn đau đáu về vận nước. Những câu thơ này như báo trước một điều quan trọng: những năm tháng ông sống, những đứa con tinh thần của ông – dù thuộc lĩnh vực nghiên cứu hay sáng tác, dù ngắn gọn hay quy mô đầy đặn – đều chứa đựng một động lực tình cảm nhất quán. Đó là lòng yêu nước chân thành.

Tôi  ngờ là khi làm thơ, ông không chú ý đến kĩ xảo gọt giũa cầu kì, dù ông có thừa điều kiện. Cũng như con người ông, tình cảm trong thơ ông đôn hậu, chân thành, giọng thơ nặng chất tâm sự, bình dị mà dằm sâu. Có lẽ dù là một trí thức tân học nhưng cũng như nhiều người cùng thế hệ, ông chịu ảnh hưởng của các nhà hiền triết phương Đông. Dù vẫn ấp ủ một tâm sự sâu kín, đôi lúc phảng phất những nét ưu tư, nhưng nhà thơ luôn xác định một thái độ sống tích cực:

Chúng ta trí thức đi theo Đảng
Nào có khi nào tính thiệt hơn
Việc làm ngay thẳng lòng trong sáng
Sống giản đơn và chết giản đơn.

(Tiếc bạn Chu Thiên, viếng bạn Đặng Huy Vận – 1968)

Tuổi càng cao, ông càng giữ được phong cách sống an nhiên tự tại, luôn chủ động, bình thản, ung dung:

Cuộc đời vinh nhục vui buồn
Sắc – không, không – sắc há còn vấn vương
Bao giờ đến lượt lên đường
Thì như một chiếc lá vàng gió bay

(Tiễn người đi – 1998)

Ở tuổi đại thọ, Giáo sư Hoàng Như Mai có quyền nghĩ một cách bình tĩnh như thế. Chúng tôi nghĩ khác. Chiếc lá vàng kia có thể không  còn tiếp tục gắn với cây đời dồi dào nhựa sống, nhưng nhân phẩm cao đẹp và những trang viết tâm huyết của ông vẫn sẽ tiếp tục  góp phần làm đẹp cho đời.

 

PGS Trần Hữu Tá
Nguồn: http://thegioimoi.vn