Hai Viện trưởng cùng… một nhà, đó là vợ chồng GS Quý – Khanh. Ông là Viện trưởng Viện Nghiên cứu truyền thống và phát triển, bà là Viện trưởng Viện Nghiên cứu giới và phát triển.
Trụ cột của đại gia đình là GS Vũ Khiêu (SN 1916), người sáng lập ngành khoa học xã hội Việt Nam vẫn đang làm việc 13 giờ/ngày ở tuổi 97. Là con dâu trưởng của GS Vũ Khiêu, GS Lê Thị Quý (SN 1950) đã kế thừa và phát huy xuất sắc con đường khoa học. “Rạng rỡ sử xanh phụ nữ Việt Nam”, cuốn sách đồ sộ (khổ 19 x 27cm, 850 trang, NXB Dân trí 12/2012, TS Nguyễn Minh San chủ biên) giới thiệu hàng trăm phụ nữ tiêu biểu các lĩnh vực từ thời Hùng Vương đến nay. Trong sáu nhà khoa học đại diện, nổi bật là GS-TS vật lý Võ Hồng Anh (con gái cả của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), PGS-TS y học Nguyễn Kim Nữ Hiếu (con gái GS Nguyễn Văn Huyên) và GS-TS Lê Thị Quý.
Là tác giả 12 đầu sách và in chung 54 cuốn, năm 2012, GS Lê Thị Quý đã bảo vệ thành công đề tài cấp Nhà nước về gia đình và năm 2014 sẽ công bố đề tài “Xây dựng gia đình VN đến 2020”. Bà còn là thành viên của tổ chức “Con đường đi lên của châu Á” (ARENNA), thành viên Tổ chức Phát triển luật pháp của phụ nữ châu Á (APWLD) tham gia “Nhóm phụ nữ châu Á”, phụ trách phần Việt Nam, thường vụ Hiệp hội Công tác xã hội và dạy nghề VN.
Sau giải phóng 1975, GS Vũ Khiêu vào Nam công tác, phụ trách Viện Khoa học xã hội, kéo vợ chồng con cả vào cùng. Đến 1982, ông Đặng Cảnh Khanh sang Hungary nghiên cứu sinh và tới 1986 là tiến sĩ xã hội học đầu tiên của Việt Nam. Năm 1984, bà Quý sang Mát-xcơ-va nghiên cứu lịch sử và năm 1989 bảo vệ tiến sĩ tại Viện Hàn lâm khoa học xã hội Liên Xô. Vậy là họ gửi con trai duy nhất cho ông bà nội. Hồi ở TP.HCM, GS Lê Thị Quý đã xuất bản “Nghiệp đoàn và phong trào công nhân Sài Gòn trước 1975”. Bà có những kỷ niệm đẹp với Hội LHPN, khi cùng phối hợp làm dự án “Chống buôn bán phụ nữ và trẻ em”.
GS Quý khẳng định: “Không có bình đẳng tuyệt đối, bởi tạo hóa từ lúc sinh ra con người nam và nữ đã bất bình đẳng. Chức năng giới tính của phụ nữ rất nặng: mang thai, sinh đẻ, nuôi con. Đàn ông giao phó hay để cho đàn bà lo toan hầu hết việc gia đình, và nhiều chị em đảm đương tất cả một cách tận tụy, hy sinh trong sự nhầm lẫn chung của xã hội về mọi việc ấy là thiên chức. Thực ra, đó là xã hội chức. Đừng quy là thiên chức khiến phụ nữ phải gánh quá nặng, khó phát triển sự nghiệp. Cần có sự phân công lao động hợp lý, gia đình, không mặc định đổ dồn cho người vợ”. Bà xót xa khi đa số chị em ở miền núi, nông thôn: “Họ luôn lao động quá sức kéo dài, hy sinh mù quáng”.
“Thưa GS, phụ nữ miền Nam nói chung và TP.HCM nói riêng nhàn hơn phụ nữ miền Bắc và miền Trung, chịu khó làm đẹp hơn. Với tư cách nhà xã hội học, bà phân tích điều này thế nào?”. GS Lê Thị Quý: “Trước hết, do đặc điểm tự nhiên, miền Nam là vựa lúa, khí hậu thiên nhiên ưu đãi, đất rộng, dễ sống hơn. Miền Bắc, Trung đất chật, cằn cỗi, hay lo đói. Tiếp đến thời kỳ đế quốc Mỹ xâm lược và ở Sài Gòn 20 năm, nhiều người làm cho Mỹ nuôi đủ vợ con, trong khi phụ nữ miền Bắc phải lao động góp vào mới đủ duy trì gia đình. Nhiều chị em miền Nam ảnh hưởng nữ quyền phương Tây, đòi hỏi sự bình đẳng trong quyền được hưởng thụ”.
Bà cũng chia sẻ thêm: “Điều mà tôi ngưỡng mộ phụ nữ đô thị TP.HCM là từ thiếu nữ đến bà lão luôn ý thức mặc đẹp, ngay trong nhà. Tôi đã mang điều này ra Bắc tuyên truyền, giảng dạy tại các trường đại học và các cuộc nói chuyện chuyên đề. Phụ nữ TP.HCM mặc đẹp, trang điểm lúc ở nhà thì chồng con được hưởng, được mát mắt, phải vì chồng con trước hết chứ. Đa số chị em Hà Nội và phía Bắc chưa chú ý việc này. Có con nhỏ thì đầu tóc và thân thể không thơm sạch, người khác lại lý do quá bận, lớn tuổi cần gì, ở nhà có ai đâu mà cần đẹp, những điều này làm phụ nữ Bắc, dù tảo tần, trung thực, hy sinh nhưng cũng “thô” hơn”.
Viện Nghiên cứu giới và phát triển của GS Quý đang thực hiện các dự án và sắp cung cấp các dịch vụ: tư vấn về giới, hôn nhân, tập huấn tiền hôn nhân, phòng chống bạo lực gia đình. GS chú ý đề cao phụ nữ độc lập khi phấn đấu sự nghiệp, song bà ủng hộ mô hình gia đình truyền thống: đầy đủ bố mẹ, vợ chồng, vì tương lai đứa trẻ và xã hội. Là một phụ nữ hạnh phúc và thành đạt, GS Lê Thị Quý có “8/3 quanh năm” bên chồng. Ngôi nhà bà luôn có hoa tươi và tiếng cười. Một không khí đầm ấm, lối sống văn minh của những người Tây học với nền nếp gia phong tôn trọng vẻ đẹp cổ điển, là tinh thần họ tiếp thu GS Vũ Khiêu, người am hiểu Hán học và yêu văn minh Pháp.
Tuổi ngoài 60, ông bà vẫn tràn đầy cảm hứng giảng dạy. Với họ, nghiên cứu đấu tranh bình đẳng giới là quá trình dài, liên quan ở nhiều ngành và lĩnh vực cần tâm huyết và sự kiên tâm.
Khát vọng lớn nhất của GS Lê Thị Quý là sự nghiệp cùng kết quả nghiên cứu của bà phục vụ hiệu quả cho sự bình đẳng và hạnh phúc của nữ giới. Đó cũng là hạnh phúc và động lực sống của nhà khoa học này.
Vi Thùy Linh