
Đã sang tuổi 84 nhưng GS Nguyễn Tài Thu
vẫn châm cứu chữa bệnh cứu người
Dùng cơ thể mình để thực nghiệm y học
GS Nguyễn Tài Thu sinh năm 1931, tại huyện Hoài Đức, Hà Tây cũ (Hà Nội ngày nay) trong một gia đình có truyền thống Nho học. Những năm 1945 – 1946, khi cả Hà Nội bom đạn mịt mù, và tận mắt chứng kiến nhiều người bị thương và chết do chiến tranh, trong ông cháy bỏng ước mơ trở thành bác sĩ chữa bệnh cho mọi người. Đầu những năm 50, Nguyễn Tài Thu được cử đi học Y khoa, sau đó được Nhà nước đưa sang Trung Quốc đào tạo về Đông y. Từ năm 1967, ông đi sâu nghiên cứu ngành châm cứu tại một phòng mạch của Hội Đông y ở phố Tông Đản, Hà Nội. Tới năm 1968 từ đề xuất của ông, Hội Châm cứu đầu tiên của Việt Nam hình thành.
GS Nguyễn Tài Thu tiết lộ: Ông từng lấy cơ thể mình thực nghiệm rồi mới đụng kim châm vào người khác. Bắt đầu từ việc chứng kiến những cơn đau vật vã trong khi mổ cho các thương, bệnh binh, GS Nguyễn Tài Thu đã nghĩ ra phương pháp châm cứu gây tê nhằm làm giảm đau. Tuy nhiên vào đầu những năm 70, tư liệu về phương pháp này hầu như rất ít. Bên cạnh việc nghiên cứu chuyên sâu các sách Đông y, ông quyết định tự châm cứu vào những huyệt trên chính cơ thể mình để biết được chỗ nào đau, chỗ nào không đau. Có những huyệt ông tự dùng kim thọc sâu 10 cm kéo dài từ cổ xuống ngực. Thậm chí ngay cả huyệt á môn (sau gáy), một huyệt mà sách viết chỉ cần kim châm vào sâu 2 cm là nguy hiểm đến tính mạng nhưng ông vẫn không ngần ngại châm sâu tới 5 cm. Mỗi một cuộc thử nghiệm như vậy, người thân gia đình ông đều “thót tim”, thậm chí có người bật khóc can ngăn. Thế rồi, bao nhiêu quyết tâm, bao nhiêu ngày tháng ròng rã tự đưa cơ thể mình ra thử nghiệm đến khi thành công, ông mới quyết định áp dụng trong các ca mổ thương, bệnh binh.
“Vào tháng 8-1978, tôi chữa một thương binh tên là Hào bị liệt hai chân và không nói được. Lúc đó chiến tranh nên việc chữa bệnh trong hầm tối đen và lỏm bỏm nước, rất khó khăn. Tôi châm kim vào hai huyệt chính là Thượng liêm tuyền và Á môn rồi châm tiếp hai huyệt Đại trùy và Thiên đột. Vài chục phút im phăng phắc rồi Hào bật nói… Lúc đó anh em thương, bệnh binh bên cạnh ồ lên vui sướng, còn tôi thì… rớm nước mắt!” – GS Nguyễn Tài Thu bồi hồi nhớ lại những khoảng khắc không bao giờ quên của mình khi chữa bệnh thời bom rơi đạn nổ. Ông bảo, ông là người dễ xúc động, dễ bật khóc lắm!
“Đến nay tôi vẫn chưa nhận sổ hưu”
Bên những thành công, GS Nguyễn Tài Thu cũng nếm trải đắng cay những ngày bước chân vào nghề, khi “lực bất tòng tâm” trong việc cứu mạng sống cho đồng đội. Trầm ngâm, ông kể với tôi: Đó là trường hợp chữa trị cho dũng sĩ diệt Mỹ tên là Khánh, bị thương ở chiến trường Quảng Trị, liệt cả hai chân. Kim châm vào nhưng do vết thương vào tận đốt T7, T8 xuống đến lưng (tổn thương phần tủy), người dũng sĩ đó đã ra đi trước mắt GS Nguyễn Tài Thu. Rồi cũng không ít thương binh chỉ nói được dăm ba câu rồi nắm chặt tay ông, chìm sâu vào giấc ngủ khi nào không hay… Nhiều đêm trắng, ông đã tự dằn vặt mình.
Cả cuộc đời cống hiến và làm việc quên mình, tài sản lớn nhất của ông là hàng chục cuốn sách về châm cứu và lý luận Đông y như Tân châm, Nghiên cứu châm tê trong phẫu thuật, Thủy châm, Nhĩ châm, Mai hoa châm, Điện châm…, làm “cẩm nang” cho hàng ngàn y, bác sĩ sau này. Đặc biệt, hai kỹ thuật Châm tê và Châm cứu cai nghiện ma túy (được Bộ Y tế cho phép triển khai với tỷ lệ cắt cơn rất cao, chỉ có 5% đến 10% tái nghiện) do GS Nguyễn Tài Thu phát minh đã được giới thiệu tới gần 50 quốc gia. Trong đó phương pháp Điện châm gây tê cho phẫu thuật của GS đã thực hiện trên 100.000 ca mổ gồm 60 loại phẫu thuật khác nhau đạt kết quả 98,3%. GS cũng đã áp dụng thành công kỹ thuật Măng châm với cây kim có chiều dài tới 60 cm để đi vào các huyệt sâu trong cơ thể, có hiệu quả cao trong chữa bệnh.
Từ con số không, GS Nguyễn Tài Thu cùng cộng sự đã phát triển Hội Châm cứu Việt Nam lên hàng chục ngàn hội viên, đào tạo hàng trăm cán bộ châm cứu trình độ sau đại học… Đến nay hầu hết các bệnh viện trong cả nước đều có bộ môn Châm cứu. Viện Châm cứu Việt Nam do ông sáng lập từ tháng 4-1982 trở thành địa chỉ quen thuộc của giới khoa học châm cứu quốc tế.
…Trong những ngày mở lớp tập huấn truyền nghề châm cứu tại BV Nguyễn Tri Phương (quận 5 TP HCM), ông căn dặn thầy thuốc trẻ: “Hãy làm việc bằng cái tâm của mình, đặt lợi ích người bệnh lên trên hết bởi chính các bạn sẽ là niềm hy vọng cho y học nước nhà”. Ông cũng luôn tự răn mình với dòng chữ nổi bật ngay trong căn phòng làm việc của mình: “Người thầy thuốc cần có một trái tim nhân hậu dành cho bệnh nhân ”.
“Đến nay tôi vẫn chưa nhận sổ hưu” – vị GS dí dỏm bộc bạch về sự khao khát cống hiến cho nghề đến hơi thở cuối cùng, khi chia tay chúng tôi.
Hà Tuấn