GS.Nguyễn Duy Quý (bên phải) và GS.Trần Văn Giàu tại TP.HCM tháng 6/2002.
Trong phòng khách bày biện giản đơn, ông lần giở những tập album đã nhuốm màu thời gian và say sưa kể cho tôi nghe về quê hương, gia đình và cuộc đời mình.
Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, được thừa hưởng truyền thống của quê hương cách mạng và vùng đất hiếu học Thanh Chương, Nghệ An. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông mới học xong lớp 3 bậc Sơ học. Cho đến ngày 8/4/1950, khi là một trong những thanh niên tiêu biểu vinh dự được kết nạp vào Đảng, ông ý thức thêm rằng: “Là thanh niên tuổi 18, mình phải tiếp tục học lên, nếu không sẽ không đủ trình độ phục vụ cách mạng”. Vậy là ông vừa công tác, vừa là học sinh trường Đặng Thúc Hứa (1950 – 1953).
Năm 1953, ông được cử sang học Trường Sư phạm Trung cấp Tự nhiên ở Khu học xá T.Ư (Nam Ninh, Trung Quốc). Sau khi tốt nghiệp, ông về nước làm giáo viên Trường Bổ túc Văn hóa Công nông T.Ư ở Hà Nội. Đây là ngôi trường đã đào tạo được nhiều người sau này trở thành những nhà lãnh đạo của đất nước như: Phan Văn Khải, Trần Xuân Giá, Trần Hồng Quân, Trần Chí Đáo, Lê Văn Dĩ, Hồ Sĩ Thoảng, Lê Văn Tu, Hoàng Tanh…
Từ phải sang trái: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Văn Tiến Dũng,
Đại tướng Chu Huy Mân, GS.Nguyễn Duy Quý tại kỳ họp Quốc hội năm 1992.
Trong điều kiện hết sức khó khăn của những năm 50, thế kỷ XX, GS.Nguyễn Duy Quý đã tự học tiếng Nga và các chuyên đề khoa học để nâng cao trình độ của mình. Năm 1961, ông được cử sang Liên Xô học tại Trường ĐH Tổng hợp Lômônôxốp chuyên ngành Triết học. Năm 1964, do tình hình biến đổi khách quan trong phong trào cách mạng các nước XHCN, những người học về khoa học xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đều rút về nước. Khi về nước, ông được phân công dạy Triết học tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội. Trong khi giảng bài, ông thường lấy ví dụ về khoa học tự nhiên nên sinh viên rất hứng thú học. Nhà trường đã giao cho ông vừa dạy Triết vừa học thêm Vật lý bên Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội để sau này về trường giảng dạy. Chủ nhiệm Khoa Vật lý, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội lúc bấy giờ là GS.Hoàng Phương đã rất sốt sắng và nhiệt tình khuyến khích ông đi học.
GS.Nguyễn Duy Quý và GS.Hoàng Xuân Hãn tại Paris, năm 1992.
Ngay mùa hè năm 1965, ông đã thi xong chương trình năm thứ 2 nên được vào thẳng năm thứ 3. 2 năm sau, ông tốt nghiệp với hầu hết các môn đạt điểm 5 (trong thang điểm 5). Trong 270 sinh viên tốt nghiệp khóa 1963 – 1967, ông là người duy nhất có bài thi Chính trị đạt điểm 5 và cũng là người duy nhất được giữ lại làm cán bộ giảng dạy của tổ Vật lý lý thuyết, Khoa Vật lý, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội.
Khi kể về những năm tháng học tập và công tác tại Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, gương mặt ông rạng rỡ hẳn và giọng nói cũng trở nên sôi nổi hơn. Ông bảo: “Đấy là một thời chiến tranh, một thời hòa bình để lại trong tôi nhiều kỷ niệm đẹp và những ấn tượng khó phai mờ”. Ông kể về những năm tháng Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội sơ tán lên miền núi ở nhiều xã như Văn Yên, Ký Phú… thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên). Về hoàn cảnh chiến tranh biết bao thiếu thốn, nhưng mọi việc trong giảng dạy, công tác và học tập của cán bộ, sinh viên vẫn được tiến hành tốt với một khí thế hào hứng và trách nhiệm. Năm 1970, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội chuyển về Hà Nội. Năm 1971, bị vỡ đê, toàn bộ Yên Viên bị ngập lụt, nhà trường được huy động đi cứu cả một kho gạo ở Yên Viên bị ngập. Tình hình rất khẩn trương, các khoa đều được huy động phục vụ công tác đột xuất này. Các giáo sư tương đối cao tuổi như GS.Hoàng Xuân Nhị (Khoa Văn học), GS.Nguyễn Thạc Cát (Khoa Hóa học)… đều tình nguyện ngâm mình dưới nước cả buổi để kéo từng bao gạo đã bị ngập lên tập kết đúng nơi quy định… Rồi ông kể tới đợt đi đắp đê ở Quế Võ (Hà Bắc) cuối năm 1971, GS.Nguyễn Đình Tứ – phó hiệu trưởng nhà trường phụ trách chung, ông và GS.Phan Hữu Dật phụ trách Khoa Vật lý và Khoa Lịch sử, chỉ đạo các cán bộ, sinh viên hăng hái lao động trên công trường tạo nên một không khí thi đua hoàn thành nhiệm vụ… Đầu năm 1972, khi Trường ĐH Tổng hợp đã tạm ổn định ở Hà Nội, thì nhận được chỉ thị của cấp trên phải chuyển về địa điểm sơ tán mới, đề phòng Mỹ ném bom Hà Nội bằng máy bay B52. Nhiều thế hệ thầy và trò Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội đã lên đường nhập ngũ để bảo vệ Tổ quốc thân yêu và nhiều người trong số đó đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường… Những kỷ niệm cứ ùa về trong trí nhớ ông. Đôi mắt ông nhìn xa xăm, rưng rưng lệ…
Năm 1982, ông bảo vệ luận án phó Tiến sĩ Triết học tại Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô với đề tài “Những đặc điểm của nhận thức thế giới vi mô” trước thời hạn 7 tháng nên được nhà trường cho đi thăm một loạt nước Đông Âu: Bungari, Rumani, Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức. Năm 1987, ông bảo vệ luận án tiến sĩ Triết học tại ĐH Tổng hợp Humboldt, (CHDC Đức) với đề tài: “Mối tương quan giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trong nhận thức thế giới vi mô”.
Ông được phong học hàm Giáo sư Triết học năm 1988, được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Nga tháng 6/1999 và được Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc tặng bằng Giáo sư danh dự tháng 11/2000.
Trong những lần đến nhà ông chơi, tôi còn được nghe ông kể về một kỷ niệm khó quên khi còn ở Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội. Năm ấy 1977, ông được bầu vào Thành ủy Hà Nội (khoá VII). Giáo sư, Hiệu trưởng Ngụy Như Kon Tum đứng ra tổ chức một buổi gặp mặt cán bộ chủ chốt của Trường để chào mừng thành công của Đại hội và cũng là mừng Bí thư Đảng uỷ của trường lần đầu tiên được tham gia Thành uỷ Hà Nội. Trong buổi gặp mặt thân mật ấy, GS.Ngụy Như Kon Tum nói: “Thưa các đồng chí, phải sau 20 năm xây dựng và trưởng thành của Nhà trường và phải đến Đại hội lần này, đồng chí Bí thư Đảng uỷ của trường ta mới được bầu vào Thành uỷ. Đây không chỉ là niềm vui, vinh dự của Đảng bộ Nhà trường, mà còn là niềm vui của toàn trường chúng ta. Sự kiện này chắc chắn sẽ giúp nhiều thuận lợi cho Nhà trường. Chính vì thế, tuy tôi không phải là đảng viên, nhưng tôi xin chúc mừng và hy vọng đồng chí Thành uỷ viên, Bí thư Đảng uỷ của Trường sẽ có đóng góp nhiều hơn nữa cho sự trưởng thành của Trường…”.
Đầu năm 1986, GS.Nguyễn Duy Quý “rời trường” đi làm nhiệm vụ mới vẫn ghi sâu những lời dặn dò và niềm mong đợi như thế. Và đó chính là động lực thôi thúc ông cố gắng vươn lên trước những khó khăn của công việc, của cuộc sống để có được những thành tựu như ngày hôm nay. Mà nói là “rời trường”, “chia tay” vậy thôi, chứ trên thực tế, tuy ông không chính thức biên chế ở Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội nhưng ông vẫn gắn bó rất chặt chẽ với Nhà trường và nay là với ĐH Quốc gia Hà Nội.
Năm 1986, ông chính thức chuyển công tác về Ban Khoa giáo T.Ư với cương vị phó Trưởng Ban Khoa giáo T.Ư, Bí thư Đảng uỷ Khối các cơ quan khoa giáo T.Ư, rồi sau đó về Viện Khoa học Xã hội Việt Nam nhưng vẫn kiêm nhiệm làm GĐ Trung tâm Bồi dưỡng Cán bộ giảng dạy Mác – Lênin (nay là Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên Lý luận Chính trị – ĐHQGHN) từ năm 1985-2000, phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học thuộc Trường ĐHTHHN nay là Tạp chí Khoa học thuộc ĐHQGHN.
Ông cũng đã từng đảm nhiệm trọng trách ở nhiều vị trí công tác khác nhau như: Ủy viên T.Ư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII, khoá VIII (1991 – 2001); đại biểu Quốc hội khoá IX và khoá X (1992 – 2002); phó Chủ tịch Hội đồng chính sách Khoa học công nghệ Quốc gia (1992 – 2003); phó Chủ tịch, Ủy viên Hội đồng Lý luận T.Ư (1996 đến nay); Ủy viên Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1987 đến nay); Chủ tịch Hiệp hội các Hội đồng Nghiên cứu Khoa hoc Xã hội châu Á (1999 – 2001); Ủy viên Hội đồng xét duyệt Học vị và Chức danh khoa học Nhà nước (1991 – 1995); Ủy viên Hội đồng Học hàm Nhà nước (1995 – 2001); Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Canada (1999 đến nay); Tổng thư ký Hội đồng T.Ư chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn Khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ biên giáo trình quốc gia Triết học Mác – Lênin… Nhưng đáng kể hơn cả ông là Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội, sau đó là GĐ Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (Trung tâm KHXH&NVQG) – người quản lý và phát triển khoa học xã hội – nhân văn ở Việt Nam 12 năm liền (1991 – 2003). Ông làm lâu năm thứ hai sau GS.VS Nguyễn Khánh Toàn (làm 17 năm).
Lưu Mai Anh