“Hà Nội 12 ngày đêm” qua Nhật ký của GS Tôn Thất Tùng

Dự đoán âm mưu của đế quốc Mỹ sẽ tập kích B52 vào Hà Nội, Ban lãnh đạo Nhà nước ta ra Chỉ thị, yêu cầu người dân Thủ đô khẩn trương đi sơ tán, nhất là ở những khu vực trọng điểm của thành phố. Từng dòng người nối nhau về các vùng ngoại vi, Hà Nội dần trở nên vắng vẻ. Các đơn vị quân đội, công an, dân quân tự vệ, thanh niên xung phong cùng với đơn vị phục vụ chiến đấu đã sẵn sàng trong tư thế chiến đấu.

Vào thời điểm này, GS Tôn Thất Tùng là Giám đốc Bệnh viện Việt – Đức, một trong những đơn vị có nhiệm vụ trực chiến cấp cứu những thương vong ở nội thành Hà Nội, đồng thời là nơi đón tiếp, chữa trị các thương, bệnh binh từ chiến trường miền Nam chuyển ra. Chính vì thế, với cương vị lãnh đạo một Bệnh viện lớn, GS Tôn Thất Tùng có trọng trách trong việc tổ chức, điều hành toàn lực Bệnh viện để đáp ứng kịp thời những yêu cầu điều trị cấp thiết của cuộc chiến. Nếu như năm 1954, tại Hầm quân dân y dã chiến ở thung lũng Mường Phăng, GS Tôn Thất Tùng đã cùng đồng nghiệp vượt qua khó khăn, gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần vào Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, thì giờ đây ông bước vào trận chiến khốc liệt mang tên “Linebacker II” với một quyết tâm cao độ: “Hà Nội, tất cả mọi người đều dũng cảm. Con cháu ta đã được rèn luyện trong bom đạn… Mỹ đã lầm có thể làm nhục các đại biểu ta, coi thường dân ta. Ta thề phải nắm vững Hà Nội, để lại cho lịch sử vai trò xuất chúng của dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hơn cả dân tộc Hy Lạp hay La Mã đời xưa”. Tinh thần yêu nước ấy đã lan tỏa và truyền lửa tới người thân cũng như các học trò của ông:“Bách[1] (Tôn Thất Bách-TG), Hồ[2] (Vi Thị Nguyệt Hồ – TG) gần như ở trong bệnh viện cả ngày… Sinh viên cùng với cán bộ nhà trường ở trong Bệnh viện Việt- Đức”.

Từ tối 18-12-1972, Hà Nội rung chuyển bởi các đợt tấn công của nhiều tốp máy bay Mỹ. Dù tập trung cao độ cho nhiệm vụ chuyên môn, GS Tôn Thất Tùng vẫn theo dõi và ghi lại chi tiết những sự kiện đang diễn ra: “Từ lần leo thang thứ 2 của Nixon (từ 19-12) có nhiều thay đổi lớn lao cần tóm tắt lại. Họp giữa anh Thọ (Lê Đức Thọ – TG) và Kissinger (Henry Kissinger – Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ) bế tắc, nhưng cũng chưa mất hoàn toàn hy vọng,… Mỹ bắt đầu đánh ngoại ô Hải Phòng, nhưng vẫn chối cãi và Nhà Trắng nói chưa có gì thay đổi. Ngày 18, anh Thọ vừa về đến sân bay, thế là bắt đầu một cuộc tấn công ồ ạt vào Hà Nội và lân cận, tất cả các sân bay, kể cả sân bay Gia Lâm mà từ lâu chúng vẫn không đụng đến. Đánh một cách tàn bạo vào Hà Nội với một lực lượng 500 máy bay, kể cả F111 và B52. Đánh B52 vào lúc 8 giờ tối và 5 giờ sáng…”…“Đêm 19-12, súng bắn rực trời. B52 quét lần lượt Lương Yên, Yên Phụ, Gia Lâm và Bạch Mai. Nhà máy điện gục, nhà máy nước liệt, mất nước, mất điện. 800 người chết, 800 người bị thương từ 19 đến 23”[3].

Những trận mưa bom Mỹ liên tục dội xuống Hà Nội, vào các khu dân cư, kể cả bệnh viện, trường học. Hòng xoa dịu dư luận, chỉ đêm Noel 24 -12, máy bay Mỹ ngừng hoạt động, nhưng mức độ tàn bạo thì không thể mô tả hết được khi B52 của chúng giải thảm khu phố Khâm Thiên. Trong Nhật ký ghi ngày 26-12-1972, GS Tôn Thất Tùng viết: “Bắt đầu ném bom lại, xung quanh Hà Nội, một cách yếu ớt, vì đã bị mất bây giờ là 18 B52 và ngay Mỹ cũng thú nhật mất 70 phi công trong tuần vừa qua. 14h báo động, 45 phút: Ném bom ra vùng Bạch Mai”[4].

 Ghi chép ngày 27-12, ông viết: “Tối hôm qua B52 đánh ác liệt Khâm Thiên, phá tan cả khu phố đông dân cư (từ 8 giờ đến 11 giờ). Tối yên tĩnh đến sáng. Huyên[5] (GS Nguyễn Văn Huyên-TG) đến đưa gia đình cụ Di[6] (GS Hồ Đắc Di-TG) và Hồng Tâm (con gái GS Tôn Thất Tùng) đi sơ tán ở Ngọc Tảo và Phùng Thượng, huyện Phúc Lộc, Hà Tây – đi lúc 3 giờ (sáng)”. Vào thời điểm ấy GS Tôn Thất Tùng cùng những “chiến sĩ áo trắng” trong gia đình mình ở lại làm nhiệm vụ “trực chiến”: “Sắp có những cuộc bom ác liệt xuống Hà Nội. Mình, Hồ và Bách ở lại làm nhiệm vụ đến cùng. Nhờ Trời. Bây giờ ai mới biết ở Hà Nội phải có can đảm như đi B! … Đi ngủ tại Việt- Đức”.

GS Tôn Thất Tùng trong những ngày đầu xuân năm 1973, sau khi Hà Nội thắng trận "Điện Biên Phủ trên không"

Cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam vốn đã bị dư luận thế giới, thậm chí ở ngay nước Mỹ lên án và phản đối, hàng vạn người dân, đặc biệt là giới trẻ xuống đường biểu tình. Hành động điên cuồng của Mỹ trong những ngày cuối tháng 12-1972 với dã tâm “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá” càng khiến nhân dân thế giới căm phẫn và phản đối mạnh mẽ hơn. Làm nhiệm vụ giữa hiểm nguy của cuộc chiến, chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng về mức độ hủy diệt mà kẻ thù đã gây ra cho dân tộc, GS Tôn Thất Tùng hết sức căm phẫn: “Thằng Nixon dã man hơn cả Hitler. Chưa thấy một ai trong các người cầm quyền Châu Âu từ trước đến nay như vậy…Chính phủ Mỹ tiêu biểu một độc tài chưa thấy bao giờ, không đếm xỉa đến dư luận trong nước hay là như ngoài nước”[7].

“28-12-1972: Ném bom Minh Khai lúc trưa, lúc tối B52 bị bắn rơi ngay ở Ba Đình trước khi ném bom. 29-12-1972, vẫn tiếp tục ném bom. Trưa hôm qua, độ 1h30, máy bay F111 đến đánh các mục tiêu kho và nhà máy ở Minh Khai, nhà máy xay gạo ở phía Nam trên sông Hồng, gần nhà. Dân chúng ở bãi ô tô tạm thời ở vườn hoa con cóc… Tối hôm qua, B52 ném xung quanh Hà Nội, ở bên sông kia. Trưa có 20 bệnh nhân. Ở Minh Khai chỉ có 2 chết”. Trong bom rơi đạn nổ ác liệt, quân dân Thủ đô nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung, mỗi người một nhiệm vụ, kể cả người già, trẻ con đều không lộ vẻ sợ hãi, thậm chí coi cái chết như một số phận.

Giáo sư Tôn Thất Tùng cùng các đồng nghiệp bận rộn với những ca mổ xẻ ở Bệnh viện, ngày đêm trực chiến và luôn thể hiện một tinh thần, thái độ tin tưởng vào chiến của nhân dân, bởi chính nghĩa thuộc về chúng ta. Hai nhà báo của Hãng AFP (Agence France-Presse) là Toroval và Sablou đã rất dỗi kinh ngạc khi được trả lời về con số thương vong: “200 bị thương, 200 chết mỗi ngày từ 19 đến 28-12”. Họ càng ngạc nhiên và khâm phục về sức chịu đựng, tinh thần lạc quan của GS Tôn Thất Tùng.

Sablou hỏi: “Anh làm việc thế nào?”.

GS Tôn Thất Tùng chỉ vào phòng làm việc tại Bệnh viện và nói: “Đây là chỗ ăn, chỗ ở, chỗ làm việc của tôi”.

Sablou: “Anh chịu đựng như thế được bao nhiêu?”

GS Tôn Thất Tùng nhấn mạnh: “1 tháng cũng được, 1 năm cũng được, và có thể 4 năm cũng được!”[8].

 Những nhà báo của Hãng thông tấn danh tiếng thế giới này nhận thấy, ở Việt Nam ai cũng có thể trở thành người lính quả cảm, ai cũng có thể biến đau thương thành hành động, ranh giới giữa sống và chết không tồn tại, chỉ có một tình yêu nước và tin tưởng vào ngày mai tươi sáng. Cuối cùng, cuộc xâm lăng của không quân Mỹ đã thất bại thảm hại và sự hân hoan trở lại trên gương mặt mỗi con người Việt Nam. Nhật ký ngày 1-1-1973 ghi: “Sau 12 ngày chiến đấu, sự chịu đựng của Hà Nội và Hải Phòng bền bỉ hơn không quân chiến lược Hoa Kỳ… Lấy chăn màn ở Việt – Đức về và liên hoan thắng lợi bằng một bữa mắm có thịt quay… Các con phố lại đầy người như trước. Hà Nội và Hải Phòng đã chịu đựng tương đương bằng 5 bom nguyên tử”.

 Ngay sau trận “Điện Biên Phủ trên không” chiến thắng oanh liệt, Bệnh viện Việt – Đức được trao tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì vì những đóng góp của tập thể Y, Bác sĩ, cán bộ nhân viên Bệnh viện. Về sự kiện này, GS Tôn Thất Tùng viết: “Hôm nay a. Quang[9] (Nguyễn Dương Quang) đến bảo là Bộ muốn tặng cho Việt – Đức Huân chương Chiến công hạng 2. Bệnh viện từ chối xin hạng 1… Tốt nhất là đừng cho Huân chương, mà cho tiền… Chỉ cần hỏi bệnh nhân muốn vào bệnh viện nào là biết ngay”[10].

 Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký kết, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của dân tộc ta. Thành quả ấy có được, một phần là nhờ chiến thắng quyết định của quân dân ta trong 12 ngày đêm cuối năm 1972. Hà Nội sẽ mãi đi vào lịch sử với mốc son chói lọi ấy, mỗi người được sống trong thời khắc ấy thật vinh dự là một nhân chứng lịch sử. Đã qua 40 năm sau chiến thắng B52 của Mỹ, những dòng ghi chép trong cuốn Nhật ký của GS Tôn Thất Tùng vẫn còn nguyên màu mực và rõ nét, đó là một minh chứng, một phần tư liệu lịch sử quý giá, mãi mãi sáng ngời của Hà Nội.

Nguyễn Thanh Hóa – Đỗ Minh Khôi

_____________________

[1] PGS Tôn Thất Bách – Con trai GS Tôn Thất Tùng

[2] Bà Vi Thị Nguyệt Hồ – Phu nhân của GS Tôn Thất Tùng.

[3] Trích Nhật ký ngày 24-12-1972 của GS Tôn Thất Tùng.

[4] Trích Nhật ký ngày 26-12-1972 của GS Tôn Thất Tùng.

[5] GS.TS Nguyễn Văn Huyên- Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục.

[6] GS Hồ Đắc Di – Hiệu trưởng trường Đại học Y Hà Nội.

 [7] Trích Nhật ký ngày 26-12-1972 của GS Tôn Thất Tùng.

[8] Trích Nhật ký ngày 28-12-1972 của GS Tôn Thất Tùng.

[9] GS Nguyễn Dương Quang, sau này là Giám đốc Bệnh viện Việt – Đức.

[10] Trích Nhật ký ngày 2-1-1973 của GS Tôn Thất Tùng.