Hành trình từ sông ra biển lớn

Kỳ 1: Đi suốt một đời để tìm một lời giải

Trong phòng làm việc nhỏ tại nhà riêng của GS.TS Lương Phương Hậu, trên các giá kệ, bàn máy tính… trưng bày hàng trăm kỷ vật nhỏ xinh đủ loại từ nhiều quốc gia, nhiều vùng miền. Ông hé lộ rằng đó là kỷ niệm của những nơi ông từng đặt chân tới ít nhất là một lần. Từ đó, tôi ước chừng ông đã đi tới khoảng 20 quốc gia, rất nhiều thành phố khác nhau trên thế giới và trên 55 tỉnh thành trong nước. Ở ông, sự am hiểu sâu sắc về tự nhiên và lịch sử, xã hội của những nơi ông từng đi qua quả là đáng kinh ngạc. Bỗng nhớ đến bài thơ “Đi suốt một đời” của ông, tôi thắc mắc: “Đã ở tuổi 74 rồi đôi chân của thầy có còn dẻo dai, đến với các vùng miền nữa không?”. Ông cười hiền: “Tôi cầm tinh con rồng, tuổi Canh Thìn, thích vùng vẫy sông nước, cứ đi ra sông, ra biển là tôi quên hết tuổi tác, như có thủy thần phù trợ…”. Và ông bắt đầu cái mạch kể chuyện mà tôi vô tình vừa mới khơi ra.

Lương Phương Hậu sinh ra trong một đêm mưa như trút nước, ngày 11 tháng 7 năm 1940, tại quê mẹ – làng Thuần Hậu kề bên Bến đò Cung, vùng trung du sông Cả. Bố của ông là người làng Cao Phương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, dòng dõi Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Tên Lương Phương Hậu do bố của ông đặt là sự lồng ghép tên hai làng – nguồn cội của bố và mẹ.

Làng Thuần Hậu có quốc lộ 46 chạy qua, nối thị trấn Đô Lương với thành phố Vinh. Làng nhìn ra một vùng bãi sông rộng, ngoài các khoảng đất trồng cải, trồng ngô là Chợ Điếm dưới tán rộng của cây ráng và các cây lơu bơu ríu rít tiếng chim. Bến đò Cung san sát đò ngang, đò dọc, lúc nào cũng tấp nập các hoạt động giao thương của dân tứ xứ. Phía trên Bến đò Cung một đoạn là bãi cát mầu vàng rơm, với những bụi cây thấp xen lẫn trong các cồn cát, là nơi lũ trẻ làng chơi trốn tìm, đánh trận giả, bơi lội cùng đàn trâu đã no nê xuống dầm nước. Đây là mảnh giang sơn đầy ma lực thời thơ ấu của nhà trị thủy nổi tiếng trong tương lai.

Hồi còn nhỏ, Lương Phương Hậu đã thuộc những lời ru của mẹ: “Dòng sông bên lở bên bồi, bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm”. Mấy lần, ông hỏi cha tại sao bên phía này làng mình thì có bãi cát rộng, đẹp như vậy mà phía bên kia lại chỉ có bãi đất bùn sạt lở nham nhở. Những mùa lũ, nước đục ngầu sùi bọt từ thượng nguồn đổ về cuốn theo những sản vật của đại ngàn, cả nhà cửa và xác người. Nhưng đến mùa nước kiệt, dòng chảy trong xanh có thể nhìn thấy cả đáy sông. Hàng ngày, ra bờ sông, cùng lũ trẻ ném thia lia hay ngồi ngắm nhìn những đoàn đò dọc dong buồm xuôi ngược không rõ đi đâu, về đâu, Lương Phương Hậu thường tự hỏi: quang cảnh thượng nguồn ra sao? Còn hạ nguồn thế nào? Và trong đầu vẽ ra bao cảnh tượng ly kỳ và háo hức muốn tự mình khám phá. Ông không ngờ rằng, vì những ham muốn tìm hiểu ấy ông phải đi tìm câu trả lời suốt cả cuộc đời.

Tốt nghiệp phổ thông, với lòng khát khao những chuyến phiêu lưu, Lương Phương Hậu đăng ký khám sức khỏe để đi Hải quân nhưng không được. Thầy Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tài Đại khuyên ông nên thi vào trường Mỏ – Địa chất để tìm kiếm tài nguyên cho đất nước. Nghĩ mình sẽ được đi nhiều nơi nên ông thích thú đăng ký ngay. Bất ngờ, mới đỗ vào trường, chưa đi học thì ông được gọi đi học trường chuyên tu ngoại ngữ để đi học ngành Trị thủy tại Học viện Thủy lợi – Điện lực Vũ Hán (Trung Quốc). Từ đây, hành trình gắn với những dòng sông và cửa biển của ông bắt đầu.

Ngay từ thời sinh viên, năm 1963, Lương Phương Hậu cùng bạn học đi thực tập bằng tàu thủy trên sông Trường Giang-con sông dài nhất châu Á, ngược xuôi giữa Vũ Hán- Thành Đô và Nam Kinh. Năm 1969, khi nghiên cứu chỉnh trị đoạn Dền để thông tuyến đường thủy trên sông Đuống, Lương Phương Hậu khi đó là một thầy giáo trẻ, cùng một thầy giáo lâu năm của Bộ môn Cảng- Đường Thủy là Hoàng Đình Dũng, đạp xe đi suốt 4 ngày dọc theo hai bên bờ tuyến đê tổng cộng dài trên 150km, để tìm ra những quy luật của dòng sông.

Riêng sông Hồng, Lương Phương Hậu không chỉ đi nhiều lần bằng nhiều phương tiện suốt chiều dài con sông vĩ đại này, mà còn có cả một bộ sưu tập về ảnh và các bản đồ lòng sông Hồng trong lịch sử hơn trăm năm của nó. Trong các chuyến khảo sát để lập dự án xây dựng các tuyến bậc thang kênh hóa đưa tàu thủy lên Lào Cai, ông đã tới vùng cực Bắc huyện Bát Xát, nơi “con sông sông Hồng chảy vào đất Việt”. Còn “ở cuối sông Hồng”, tại cửa Ba Lạt, ông đã cùng các đồng nghiệp đã ra tận Cồn Vành (Thái Bình), Cồn Lu (Nam Định)… nghiên cứu quy hoạch quai đê lấn biển. Suốt hơn 510km chiều dài con sông Cái này, gần như nơi nào ông cũng có thể nói đến đặc điểm, vấn đề tồn tại đối với lòng dẫn và dòng chảy của nó. Hơn 40km sông Hồng chảy qua Hà Nội, gần như năm nào ông cũng cùng các cộng sự (học trò, nghiên cứu sinh…) đi rà từng khúc quanh, bãi nổi, bờ lở, đoạn kè… một năm ít nhất là hai lần để từ đó có tư liệu viết nên những đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án, đề xuất những phương án chỉnh trị, tôn tạo đoạn sông đặc thù này.

 

GS.TS Lương Phương Hậu tại đầu nguồn của sông Hồng

 

trên đất Việt, huyện Bát Xát, Lào Cai (ảnh tư liệu do GS cung cấp) 

Trên tất cả các triền sông trong hệ thống sông của đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ đều in dấu chân của chàng trai Bến đò Cung, từ sông Đà, sông Lô, sông Luộc, sông Thái Bình hay sông Tiền, sông Hậu… Với các hệ thống sông vùng Đồng bằng Nam Bộ, ông có trên 12 năm lặn lội dọc theo các triền sông Tiền, sông Hậu, cùng xuôi ngược như các mảng lục bình trôi dạt theo các con triều. Từ biên giới với Campuchia đầu nguồn sông Tiền, đầu nguồn sông Hậu đến tất cả 8 cửa sông (cửa Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu, Định An, Tranh Đề) nơi nào ông cũng đã đến, dò từng hố sâu, vực thẳm. Rồi những lần ông phải đi như làm xiếc trên các thanh gỗ tràm bắc chênh vênh qua các hố xói dưới chân các sạp hàng ven sông, có khi lại lướt ào ào trên các tầu bo bo qua các kênh rạch chằng chịt vùng Tứ Giác Long Xuyên hay Cà Mau đất mũi.

Đối với GS.TS Lương Phương Hậu, đó là những chuyến đi ghi đậm nhiều dấu ấn trên các chặng đường khoa học đầy gian nan của ông. Những con sông đã trở thành máu thịt của ông, như những bạn cố tri tâm huyết, mặc dầu như ông đã nói “vạn vật luôn biến đổi, dòng sông cũng không ngừng đổi thay…”.

Thế nhưng, dòng sông cứ biến động mãi như vậy thì sẽ đi đến đâu, vị trí, hình thù, kích thước của nó sẽ biến đổi ra sao? Đó là những vấn đề cần được lí giải. Trên thực tế, bất kỳ con sông nào ở đâu trên bản đồ thì ngàn năm, triệu năm nay vẫn ở vị trí đó hoặc lân cận, Các dòng sông cơ bản vẫn như vậy, chiều rộng, chiều sâu đâu có biến động gì lớn. Do đó, cái biến động của dòng sông sẽ hướng đến một sự ổn định tương đối về thời gian và không gian. Bởi vì trong quy luật vận động của vạn vật, đều có một xu hướng phổ biến là: hướng tới một hình thái sao cho dưới tác động của ngoại lực, bản thân nó sẽ có độ biến động nhỏ nhất. Đó là điều quan trọng mà GS.TS. Lương Phương Hậu đã viết trong Luận án Tiến sĩ của mình và đặt tên cho phát hiện đó là “Giả thiết về độ biến động nhỏ nhất”. Thật ra, đây không phải là một phát kiến mới, mà là vấn đề ông nhận thức được từ một số tài liệu tham khảo. Nhưng điều cơ bản là ông đã mở rộng khái niệm đó ra cho mọi hiện tượng chuyển động cơ học, và viết ra dưới dạng một số phương trình toán học. Từ đó, có thể giải thích vì sao sông lại chảy ngoằn ngoèo trên mặt đất, vì sao kích thước bề rộng và độ sâu của lòng sông lại có một mối quan hệ ràng buộc với nhau, không thể lựa chọn tùy ý.

Chính trên luận điểm này, GS.Lương Phương Hậu đã phê phán một số người muốn đẩy tuyến đê vào thu hẹp lòng sông, đồng thời đào sâu thêm lòng sông Hồng (đoạn qua Hà Nội) để tăng diện tích thoát lũ và dành bãi cho sự phát triển Thủ đô. Ông nói, trong Toán học, để có một kết quả tích số là 100, ta có thể có vô số phép nhân có nghĩa. Nhưng để có một lòng sông ổn định có diện tích mặt cắt ngang 100m thì chỉ có một cặp duy nhất về trị số chiều rộng sông và độ sâu dòng chảy (ví dụ là 50mx2m) là bảo đảm cho lòng sông đó ổn định được dưới tác động của một chế độ dòng chảy nhất định mà thôi. “Không chỉ có phạm trù dòng sông, mở rộng ra các phạm trù khác như con người có kích thước cao – lùn, béo – gầy đều có một phạm vi dao động nhất định, như cái cây có thân cao – thấp, tán lá rộng – hẹp,… cũng đều có một giới hạn nhất định. Giới hạn đó bảo đảm cho vận động của chúng, trong một điều kiện nhất định, có “độ biến động nhỏ nhất” – ông tươi cười và giải thích thêm.

Với GS.TS Lương Phương Hậu, đi hầu hết các triền sông lớn khắp mọi miền đất nước, chỗ nào ông cũng bị hút hồn và đứng ngẩn ngơ nhìn cái vùng trời nước mênh mông của “cửa sông ra biển“. Ông bỗng phát hiện ra rằng: Cửa sông, biển chính là chỗ “đại hiển thần thông” của mình. Ở đấy, không buồn tẻ như nhiều người thường nghĩ (“Ở đây gần biển, xa nguồn/ Dòng sông chảy chậm, nỗi buồn tan lâu”- Vũ Quần Phương”), mà theo ông lúc nào cũng lấp loáng những con sóng, những cánh chim, cánh buồm… như những bàn tay vẫy gọi. Ở đấy luôn vang lên những âm thanh như một bản giao hưởng của Beethoven, lúc trầm ấm dịu dàng, lúc vang lên mãnh liệt, như mời gọi đi ra biển khơi.

Gắn với cái nghiệp sông biển, từ những năm 80 của thế kỷ XX, GS.TS Lương Phương Hậu đã trải mình trên các cồn cát, ghềnh đá, bến cảng, cù lao, bãi tắm, cửa sông… dọc theo bờ biển để chụp ảnh, ghi chép, đo đạc, chỉ đạo thi công… Các công trình sông, biển do ông thiết kế nối tiếp nhau ra đời đã góp phần chỉnh trị cửa sông, bảo vệ bờ biển trên các vùng miền cả nước và đưa tên tuổi của ông trở thành một trong những nhà nghiên cứu động lực học và công trình biển hàng đầu của nước ta.

 

 

 

Trần Bích Hạnh

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam