Hình ảnh Thầy còn mãi trong tâm trí tôi

Gần 60 năm rồi nhưng hình ảnh người thầy tận tâm, tận lực, hết lòng vì học trò, vì người bệnh luôn in đậm trong tâm trí GS Nguyễn Xuân Huyên với những kỷ niệm khó phai mờ.

Năm 1954, trước khi làm luận án tốt nghiệp khóa y khoa kháng chiến, Nguyễn Xuân Huyên được bổ túc nghiệp vụ 6 tháng tại Khoa Nội Bệnh viện Bạch Mai. Trong thời gian này, Nguyễn Xuân Huyên được Chủ nhiệm khoa – GS Đặng Văn Chung “để ý” không những vì tình cảm có sẵn của thầy đối với các anh chị em ở vùng kháng chiến về, mà còn vì cách thức khám bệnh của Nguyễn Xuân Huyên rất phù hợp với thầy: Kết hợp lý thuyết nội khoa và thăm khám lâm sàng. Cách thức này Nguyễn Xuân Huyên đã được học từ Chủ nhiệm Khoa Nội, Quân y Viện 6 (sau đổi thành Quân y Viện 9) từ năm 1950-1954 – BS Nguyễn Ngọc Doãn.

Bên cạnh đó, Giáo sư Chung còn định hướng cho Nguyễn Xuân Huyên nghiên cứu đề tài “Giá trị chẩn đoán của đo huyết áp tĩnh mạch” để làm luận văn tốt nghiệp nên những buổi Giáo sư Chung khám bệnh, Nguyễn Xuân Huyên được đi theo để học hỏi. Đồng thời Giáo sư Chung còn giao cho Nguyễn Xuân Huyên nhiệm vụ hướng dẫn một số sinh viên lớp dưới về thực tập lâm sàng.

Lại một bất ngờ nữa đến với bác sĩ Huyên khi hết thời gian học bổ túc nghiệp vụ và sau khi nhận bằng tốt nghiệp năm 1955, ông được biết Giáo sư Đặng Văn Chung đã đề nghị với lãnh đạo trường Đại học Y Dược khoa trao đổi với Cục Quân y – Cục trưởng là BS Vũ Văn Cẩn để điều chuyển BS Nguyễn Xuân Huyên về làm việc tại Bộ môn Nội do Giáo sư Chung làm Chủ nhiệm. Đề nghị đó được Cục trưởng Vũ Văn Cẩn chấp nhận ngay. “Có lẽ tôi là bác sỹ quân y đầu tiên chuyển ngành sang dân y” – GS Nguyễn Xuân Huyên cho biết.

Nhờ những ngày tháng học bổ túc và hướng dẫn sinh viên thực tập lâm sàng tại Bệnh viện đã giúp Nguyễn Xuân Huyên củng cố thêm kiến thức về lĩnh vực Nội khoa. Bởi vậy, với vai trò là giáo vụ khi về công tác tại bộ môn, Bác sĩ Huyên có nhiều thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ "phò tá" cho Giáo sư Chung trong việc lập kế hoạch thực tập, quản lý và hướng dẫn sinh viên học tập.

Trong thời gian làm giáo vụ, để củng cố thêm kiến thức, Bác sĩ Huyên thường đi dự các buổi giảng lý thuyết của Giáo sư Chung giảng cho sinh viên năm thứ 4, thứ 5 về Bệnh học Nội khoa… Trong các buổi nghe giảng đó Nguyễn Xuân Huyên đã ghi chép cẩn thận các bài giảng của Giáo sư Chung, sau đó viết lại hoàn chỉnh rồi chuyển Giáo sư Chung duyệt, sửa chữa, bổ sung. Bản ghi chép bài giảng đó đã được in thành sách Bệnh học Nội khoa, như cuốn sách giáo khoa đầu tiên đứng tên Đặng Văn Chung xuất bản năm 1956. Giáo sư Huyên kể lại: “Khi Nhà xuất bản Y học và Thể dục thể thao trả tiền nhuận bút cho Giáo sư Chung, thầy đưa hết cho tôi và nói: "Anh cứ dùng đi, anh đang gặp khó khăn". Đó là một phong cách Đặng Văn Chung và cũng là một bất ngờ với tôi. Với số tiền có được, tôi đưa gia đình và người thân đi chơi Sầm Sơn. Đấy là lần đầu tiên tôi được đi Sầm Sơn”.

GS Nguyễn Xuân Huyên

Nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, đi sâu về chuyên môn, Bộ môn Nội được chia làm 3 chuyên khoa: Nội cơ sở; Nội bệnh lý; Nội điều trị, BS Nguyễn Xuân Huyên được Giáo sư Chung tin tưởng giao làm Phó Chủ nhiệm Bộ môn, phụ trách chuyên khoa Nội cơ sở. Trên cương vị mới, với những kiến thức BS Nguyễn Xuân Huyên tích lũy qua quá trình công tác và rút kinh nghiệm từ việc chắp bút các bài giảng của Giáo sư Chung soạn thành sách giáo khoa cho sinh viên tham khảo, bác sĩ Huyên đã viết và cho xuất bản cuốn “Hướng dẫn chẩn đoán lâm sàng”gồm 2 tập.

Ngoài việc học được tác phong khám lâm sàng kỹ lưỡng và chu đáo của GS Đặng Văn Chung, BS Huyên còn học được ở thầy nhiều phẩm chất đáng quý khác.

Thứ nhất: GS Đặng Văn Chung coi trọng học trên thực tế, kết hợp thực tế lâm sàng với lý thuyết. Đối với các bệnh nhân gửi đi làm phẫu thuật, bác sĩ Nội khoa phải liên hệ với khoa Ngoại để biết được chẩn đoán của mình đúng hay sai, tình hình thực tế diễn biến bệnh ra sao. Còn đối với các bệnh nhân tử vong, phần lớn đều được mổ tử thi, bác sĩ Nội khoa cũng phải theo dõi để biết kết quả giải phẫu bệnh. Tất cả kết quả đều được báo cáo trong các buổi giao ban, phân tích tại sao đã chẩn đoán đúng, tại sao lại chẩn đoán sai và triệu chứng gì đúng với lý thuyết, triệu chứng gì không có hay chỉ nói đến rất ít trong lý thuyết. Khi còn công tác, rất nhiều lần Giáo sư Chung trực tiếp đến Viện giải phẫu để cùng GS Vũ Công Hòe xem kết quả. “Rất tiếc, hiện nay các bệnh viện hãn hữu mới mổ tử thi, việc mổ tử thi chỉ còn thấy chủ yếu trong lĩnh vực pháp y. Đó là một thiệt thòi lớn cho các thầy thuốc nội khoa, bởi không còn tài liệu khách quan để họ biết mình đã đúng hay sai như thế nào” – GS Huyên bày tỏ.

Thứ hai: GS Đặng Văn Chung tự giải quyết các thắc mắc trên lâm sàng bằng việc tra cứu tài liệu. “Có một trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán bị u tụy tạng, Giáo sư Chung đã thăm khám rất kỹ nhưng vẫn chưa khẳng định bệnh và còn rất băn khoăn. Về nhà, Thầy tra cứu các tài liệu, sáng hôm sau lại đến thăm bệnh nhân và kiểm tra các xét nghiệm cận lâm sàng. Sau khi đã khẳng định chẩn đoán bệnh nhân bị u tụy tạng, Thầy quyết định chuyển Ngoại khoa để phẫu thuật. Giáo sư Chung luôn đưa ra chẩn đoán "chắc chắn" để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. Kết quả phẫu thuật hoàn toàn đúng với chẩn đoán lâm sàng của thầy. Khoảng 15 ngày sau khi mổ, bệnh nhân đã phục hồi sức khỏe và sau này trở lại làm việc bình thường. Bệnh nhân rất biết ơn Giáo sư Chung, Tết nào cũng đến chúc Tết thầy với món quà là một quả bưởi rất to và đẹp nhất vườn, được bệnh nhân năm xưa hái trước khi đi nên rất tươi. Món quà như một lời tri ân của bệnh nhân tới Giáo sư Đặng Văn Chung: Nhờ có thầy mà tôi đã trở lại lao động được bình thường để có được một vườn bưởi đầy trái ngọt lành. Món quà tuy nhỏ nhưng khiến Giáo sư Đặng Văn Chung rất cảm động. Tình cảm và quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân lúc bấy giờ rất gần gũi”.

Thứ ba: GS Đặng Văn Chung quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ và rất cân nhắc khi tuyển chọn nhân sự. GS Nguyễn Xuân Huyên kể lại: Đầu những năm 60, BS Nguyễn Quốc Ánh – một chuyên gia về thần kinh, sau khi được đào tạo và làm việc ở Pháp trở về Việt Nam cống hiến cho đất nước. Bộ Y tế bổ nhiệm bác sĩ Ánh làm Chủ nhiệm Khoa Thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai. Giáo sư Chung gọi tôi lên và nói: “Bác sĩ Ánh là một chuyên gia thần kinh rất giỏi, anh nên học tập để hiểu hơn về thần kinh – một lĩnh vực rất quan trọng trong hệ Nội khoa”. Suốt 5-6 tháng sau đó, buổi sáng tôi được sang Khoa Thần kinh, đi theo bác sĩ Ánh thăm bệnh nhân để học hỏi; buổi chiều lại quay về Bộ môn làm giáo vụ. Nhờ bác sĩ Ánh nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu để tham khảo, nên tôi đã hiểu biết kỹ hơn về bệnh lý thần kinh, giúp ích nhiều cho tôi trong chuyên môn Nội khoa sau này.

Có lần Giáo sư Chung nói với tôi: “Nhà trường như là một nhà máy sản xuất, nếu không chuẩn thì sản phẩm làm ra sẽ không hay, nếu chỉ để tiêu dùng hàng ngày thì không sao nhưng sản phẩm liên quan đến sức khỏe con người thì phải chặt chẽ”. Vì thế, để đảm bảo chất lượng của loại sản phẩm đặc biệt – con người – Giáo sư Chung nhất định không nhận người không đủ năng lực, trình độ về làm việc ở Bộ môn, đó cũng là trong những phong cách đặc biệt của Thầy.

Ngày nay, khi khoa học-kỹ thuật phát triển, máy móc hỗ trợ việc chẩn đoán nhưng GS Nguyễn Xuân Huyên cho rằng việc coi trọng khám lâm sàng như Giáo sư Chung vẫn làm là rất cần thiết. GS Nguyễn Xuân Huyên bày tỏ: “Phong cách khám lâm sàng của GS Đặng Văn Chung nếu không được duy trì thì rất phí, và thua thiệt cho bệnh nhân, đặc biệt là ở các bệnh viện tuyến huyện, cần phải có "nhạy cảm lâm sàng" để giúp ích tốt hơn cho bệnh nhân. Nếu nắm được các triệu chứng rồi tập hợp thành các hội chứng thì sẽ chẩn đoán được bệnh, giảm thiểu việc chuyển bệnh nhân lên tuyến trên”.

GS Đặng Văn Chung thực sự là một tấm gương sáng cả về y đức và y năng… không những cho GS Nguyễn Xuân Huyên mà còn cho nhiều thế hệ học trò của thầy noi theo. Những ai từng được học tập, công tác dưới sự dìu dắt, chỉ bảo của Giáo sư Chung, ắt hẳn sẽ cảm thấy vinh dự, tự hào và có lẽ không thể lãng quên một người thầy đức độ, tài năng như vậy.

Hoàng Thị Liêm