Người sinh viên – chiến sĩ 6971
Năm 1969, Nguyễn Vũ Tiến học xong phổ thông tại trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch[1], huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình với điểm thi tốt nghiệp cao nhất trường. Ông đăng ký vào học tại trường Đại học Bách khoa[2], Hà Nội. Thời học sinh, Nguyễn Vũ Tiến thích môn văn nhưng lên đại học ông được xếp vào học lớp Toán công trình thuộc khoa Toán – Lý, trường Đại học Bách khoa. Tháng 3-1971, sau chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Quân ta giữ được hành lang chiến lược trên đường Trường Sơn để tiếp tục chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công chiến lược nhằm tạo thế và lực có lợi cho ta trên chiến trường và bàn đàm phán ở Paris, lệnh tổng động viên kêu gọi thanh niên, sinh viên lên đường nhập ngũ đã được phát đi. Theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, hàng vạn thanh niên và sinh viên các trường đại học ở Hà Nội như Bách khoa, Xây dựng, Tổng hợp, Nông nghiệp, Kinh tế Kế hoạch[3] đã xung phong nhập ngũ. Ngày 6-9-1971, tại trường Đại học Bách khoa, chàng sinh viên Nguyễn Vũ Tiến và hơn 500 nam sinh tổ chức lễ xuất quân lên đường chiến đấu. Trước lúc lên đường, Nguyễn Vũ Tiến và nhiều sinh viên tổ chức “nghi lễ” đốt sách vở như minh chứng cho sự quyết tâm trước lúc ra trận.
Trước khi vào Nam, Nguyễn Vũ Tiến được huấn luyện cơ bản tại Sư đoàn Bộ binh 325 nằm ở tỉnh Hà Bắc[4]. Sau đó, ông cùng với gần 100 chiến sĩ được phiên chế vào Bộ tư lệnh Pháo binh. Trong số đó, có khoảng 20 người được đi huấn luyện pháo binh, Nguyễn Vũ Tiến và các chiến sĩ còn lại được đi học để sử dụng tên lửa B72. Đơn vị của Nguyễn Vũ Tiến là Đại đội 4 (C4), Tiểu đoàn 371 (D371) tên lửa chống tăng, thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh. Ông Tiến được huấn luyện tại căn cứ Mỏ Chén, nằm ở phía tây huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây[5], cạnh sân bay Hòa Lạc giáp với huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Sinh viên Nguyễn Vũ Tiến (hàng ngồi, thứ nhất từ trái sang)
và các bạn khoa Toán – Lý K14, trường Đại học Bách khoa
Ông Nguyễn Vũ Tiến cho biết, B72 là loại tên lửa chống tăng vác vai, được điều khiển bằng bảng hữu tuyến, do Liên Xô viện trợ, thuộc loại hiện đại nhất lúc bấy giờ. Nguyên tắc hoạt động của B72 là quả đạn sau khi rời bệ phóng với vận tốc 120m/s sẽ tự nhả ra một cuộn dây điện dài khoảng 3.100m và sáng lên như một ngọn đèn. Trắc thủ điều khiển qua kính tiềm vọng, dùng cần điều khiển lái quả đạn theo nguyên tắc 3 điểm thẳng hàng, nghĩa là mắt trắc thủ, ngọn đèn của quả đạn và mục tiêu thành một điểm cho đến khi đạn trúng đích. Tầm bắn của tên lửa B72 xa nhất là hơn 3.000 m và gần nhất là 500 m. Đồng nghĩa, để sử dụng được B72, người bắn phải nhìn rõ mục tiêu, đợi đạn bắn ra và thao tác điều khiển. Thế nên, nguy hiểm nhất với trắc thủ B72 là để lộ vị trí sau khi đạn bắn ra, với cự ly gần, khi chưa kịp điều khiển đường đạn thì địch đã phát hiện và phản kích.
Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tiến công với 3 mặt trận chủ yếu Trị – Thiên, Bắc Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Ngày 11-3-1972, đơn vị của Nguyễn Vũ Tiến được lệnh hành quân vào chiến trường miền Nam. Từ Hà Nội đến Nghệ An, đơn vị di chuyển bằng tàu hỏa, sau đó đi tiếp vào Quảng Bình bằng ô tô. Từ Bố Trạch (Quảng Bình), Nguyễn Vũ Tiến và đồng đội hành quân bằng đôi chân của người lính với 30 kilogam quân tư trang ở trên lưng. Sau gần 5 tháng vượt Trường Sơn, tháng 8-1972, đơn vị của ông mới vào đến mặt trận B2 và đóng quân tại tỉnh Kampong Cham, Campuchia, nơi tiếp giáp với tỉnh Tây Ninh của Việt Nam.
Vào mặt trận B2, Nguyễn Vũ Tiến được phân về Đại đội 2, B72, Đoàn Pháo binh miền Đông Nam Bộ (mật danh Đoàn Pháo binh Biên Hòa). Nguyễn Vũ Tiến tham gia trận đánh và bắn quả đạn đầu tiên là 26-10-1972, (ngày dự định ký Hiệp định Paris nhưng bất thành) tại căn cứ Tống Lê Chân[7], nằm giữa hai tỉnh Bình Long[8] và Tây Ninh. Tống Lê Chân là một tiền đồn biên phòng của quân đội Sài Gòn, căn cứ với địa hình thung lũng, cách thị xã An Lộc[9], tỉnh Bình Long khoảng 15km về hướng Tây Nam. Tống Lê Chân bị quân Giải phóng miền Nam bao vây từ tháng 5-1972, Quốc lộ 13 đoạn qua huyện Lộc Ninh cũng bị quân ta chia cắt. Căn cứ Tống Lê Chân là nơi đóng quân của Tiểu đoàn 92 Biệt động quân – Biên phòng, quân đội Việt Nam Cộng hoà. Trong hoàn cảnh bị bao vây, lực lượng đối phương tiếp vận và tải thương cho Tống Lê Chân với phương tiện chủ yếu là trực thăng.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (ngày 27-1-1973), khẩu đội tên lửa chống tăng B72 được lệnh hành quân từ Dầu Tiếng về đường 13 ở Bàu Bàng phối thuộc với một số đơn vị của Công trường 5 (mật danh của Sư đoàn 5 bộ binh) miền Đông Nam Bộ để chốt chặn cửa ngõ Sài Gòn và bảo vệ vùng giải phóng. Đơn vị của Nguyễn Vũ Tiến có nhiệm vụ diệt xe tăng, phối hợp với các đơn vị bạn chống lại những cuộc hành quân lấn chiếm “cắm cờ giành đất” của quân đội Sài Gòn. Lực lượng phía đối phương là Sư đoàn 5 bộ binh dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Nguyên Vỹ[10] và Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù, hung hãn và sung sức, cùng với sự yểm trợ tối đa của hỏa lực từ phi pháo và thiết giáp. Cuộc chiến đấu sau Hiệp định Paris diễn ra ác liệt giữa hai phía, ta và địch giành đi chiếm lại từng tấc đất, cận chiến bằng lựu đạn, chiến sĩ thương vong, hy sinh rất nhiều. Tháng 12-1973, Nguyễn Vũ Tiến cùng đơn vị hành quân tham gia chiến dịch đánh căn cứ Bù Bông, tại thị trấn Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức[11].
Từ trái qua, hàng ngồi: Mai Đình Nghị (K15 Toán Lý ĐHBK, đã mất), Lê Ngọc Thiện (K11 KTKH, liệt sĩ), Bùi Huy (K15 Toán Lý);
hàng đứng: Nguyễn Văn Lợi (K11 KTKH), Quách Văn Thủy (K15 Toán Lý), Trần Xuân Nhận (K11 KTQD), Nguyễn Vũ Tiến (K14 Toán Lý) tháng 11-1971.
Mãi mãi tuổi hai tư
Trong hồi ức đời lính, Nguyễn Vũ Tiến không bao giờ quên trận đánh vào mùa khô năm 1974 ở miền Tây Nam Bộ. Tháng 5-1974, Trung đội chống tăng B72 nhận lệnh về vùng Tân Thạnh, tỉnh Kiến Tường[12] để tiêu diệt xe tăng địch, lập công, mừng ngày sinh nhật Bác Hồ (ngày 19-5). Tuy nhiên, cuộc hành quân phải đi qua nhiều đồn bốt địch nên đơn vị đến nơi tập kết thì đã là ngày 23-5-1974. Đến nơi, đơn vị được trinh sát báo về có một đoàn xe, với 13 thiết giáp M113, quân đội Sài Gòn đang triển khai lực lượng cạnh rừng trâm bầu giữa kênh Ba Ngàn và kênh Phụng Thớt.
Nói là Trung đội chống tăng B72 nhưng chỉ có 2 tiểu đội gồm 9 người là: Trung đội trưởng Nguyễn Trờ (quê Bắc Giang), y tá Nguyễn Văn Thanh (quê Đông Vệ, Thanh Hóa), liên lạc viên Hoạch (quê Thái Bình); Tiểu đội 1 có Tiểu đội trưởng kiêm trắc thủ Lê Đình Thành, pháo thủ Lê Văn Châu (quê Anh Sơn, Nghệ An) và Phạm Ngọc Oánh (quê Yên Khánh, Ninh Bình); Tiểu đội 2 do Nguyễn Vũ Tiến làm Tiểu đội trưởng và hai pháo thủ là Lê Vĩnh Hữu và Toàn (quê Nghệ An). Lê Đình Thành được coi là trắc thủ giỏi nhất trong đơn vị, ông sinh năm 1950, quê Phú Thọ, là sinh viên K14 Chế tạo máy, trường Đại học Bách khoa. Ông nhập ngũ ngày 24-8-1970, đến tháng 5-1970, trắc thủ Lê Đình Thành đã diệt được 5 xe tăng và nhiều mục tiêu khác. Trong đơn vị Lê Đình Thành là thần tượng của Nguyễn Vũ Tiến không chỉ vì thành tích chiến đấu mà còn vì sở trường đàn hay, hát giỏi, bóng bàn, cờ tướng cũng nhất nhì đơn vị nhưng cũng là người thẳng tính và ngang bướng đến thủ trưởng cũng phải ngại. Mùa khô năm 1973, Lê Đình Thành bị thương tại Bàu Bàng trong một trận đánh, ông đã tâm sự với Nguyễn Vũ Tiến rằng: tao nợ máu quá nhiều, thế nào cũng bị đòi lại, lần này nó mới đòi một ít, chắc còn nữa!
Khi nhận tin trinh sát báo về, Trung đội trưởng Nguyễn Trờ chỉ đạo Lê Đình Thành đi bắn, nhưng do sức khỏe không đảm bảo nên Nguyễn Vũ Tiến được lệnh đi thay. Trung đội trưởng Trờ cùng Nguyễn Vũ Tiến, Hữu và Toàn ra trận địa, đặt bảng điều khiển cách đội hình địch khoảng 600 – 700 m. Sau đó, ông Trờ sang đơn vị bộ binh để bàn kế hoạch yểm trợ, Nguyễn Vũ Tiến, Hữu và Toàn ở lại. Sau khi bố trí xong trận địa, Nguyễn Vũ Tiến ra lệnh cho đồng đội trở lại bờ kênh, nếu anh có hy sinh thì về báo đơn vị. Nhưng hai người đồng đội của anh nhất định không lùi lại phía sau. Trước mắt là 13 chiếc M113, trong khi chỉ có 2 quả tên lửa, nếu xuất sắc trắc thủ chỉ tiêu diệt được 2 chiếc M113 và đối mặt với 11 chiếc còn lại, Nguyễn Vũ Tiến xác định sẽ hy sinh nên nghiêm giọng: đây là lệnh, các em vào đi, đến giờ anh phải bắn rồi![13]. Lúc này hai đồng đội mới chịu rời trận địa sau cái ôm chặt người Tiểu đội trưởng.
Người lính trắc thủ Nguyễn Vũ Tiến ở lại một mình với 2 quả đạn B72 và đối mặt với 13 chiến xa địch. Lệnh khai hỏa B72 được ấn định vào lúc 13 giờ, ngày 23-5-1974. Trong khoảnh khắc giữa sự sống và cái chết, ông nghĩ về gia đình, bà con và bạn bè. Ông quyết tâm bắn và lập công. Hít một hơi thật sâu, Nguyễn Vũ Tiến đặt tay vào nút phóng và chờ đợi. Một loạt tiếng nổ vang lên, không phải của đạn B72, mà là tiếng nổ của 4 quả đạn cối 60 mm từ hầm của bộ binh bắn vào đội hình địch. Đáng lý đơn vị súng cối chỉ yểm trợ cho trắc thủ rút lui sau khi B72 đã khai hỏa, nhưng vì không hiểu ý nên đã nổ súng trước khiến quân địch rút chạy vào rừng trâm bầu. Trắc thủ Nguyễn Vũ Tiến chưa kịp bắn quả nào thì bị mất mục tiêu. Hai pháo thủ Toàn và Hữu từ bờ kênh cách đó khoảng 100 m chạy đến, ba anh em ôm chầm lấy nhau thu dọn bảng điều khiển, đạn, rồi về.
Sáng hôm sau (ngày 24-5-1974), đến lượt khẩu đội của trắc thủ Lê Đình Thành, và hai pháo thủ Lê Văn Châu, Phạm Ngọc Oánh ra trận địa. Là một người cẩn thận, đêm 23-5, ông Thành đã dẫn Châu và Oánh ra trận địa để điều nghiên, chọn vị trí phục kích. 5 giờ sáng ngày 24-5- 1974, Trung đội trưởng Nguyễn Trờ, Hoạch và khẩu đội của Lê Đình Thành ra trận địa. Trước lúc đi, ông Trờ phân công: nếu đến 8 giờ sáng nếu Thành chưa bắn (địch không ra hoặc đi đường khác) thì Tiến ra thay.
Đến 8 giờ, Nguyễn Vũ Tiến sau khi chuẩn bị cơm cho đồng đội xong thì ra trận địa để theo dõi tình hình. Gần đến nơi, pháo thủ Toàn trèo lên cây để quan sát thì nghe tiếng đạn B72 rít lên, và biết Lê Đình Thành đã khai hỏa vào xe tăng địch. Tiến và Toàn chưa kịp vui mừng, thì loạt đạn của đối phương bắn cấp tập vào vị trí quân ta. Nguyễn Văn Tiến và đồng đội tìm cách chạy đến trận địa của Thành, đạn địch bắn quá rát có cả M79, nên Tiến và Toàn dừng lại ở bờ kênh, đến hầm chỉ huy bộ binh thì nhảy vào. Trong hầm chỉ huy, Tiến gặp Trung đội trưởng, lúc này mặt ông xám đi, tỏ vẻ thất thần. Anh em bộ binh bắt sóng được đài địch, nghe địch báo cho nhau, “Việt cộng đã bắn cháy 2 xe M113, trong đó có xe chỉ huy, ngài chiến đoàn trưởng chết cháy cùng xe. Ta đã tiêu diệt được 3 cán binh cộng sản, thu toàn bộ ổ B72”. Thôi rồi, Thành – Oánh – Châu ơi! Lúc đó là hơn 8 giờ sáng ngày 24-5-1974. Những nắm cơm phần cho đồng đội đã trở thành những bát cơm thờ![15]
Đêm cùng ngày, Nguyễn Vũ Tiến và đồng đội ra trận địa để lấy xác đồng đội. Lê Đình Thành sau khi bắn cháy 2 xe tăng địch đã anh dũng hy sinh khi bị trúng đạn 12,7 mm vào giữa trán. Sau khi 2 chiếc xe tăng địch bị bắn cháy, 11 chiếc còn lại bắn theo kiểu cuốn chiếu, tiến vào nghiền nát trận địa quân ta. Đại đội bộ binh gần đó đang yểm trợ cho khẩu đội B72 của Lê Đình Thành không chịu nổi hỏa lực địch nên rút lui về hậu cứ. Lê Văn Châu và Phạm Ngọc Oánh bị địch bắt sống, trói vào nhau và buộc lựu đạn giật tung. Đề phòng địch cài mìn dưới xác tử sĩ, Nguyễn Văn Tiến dùng dây dù để kéo xác đồng đội, rồi đưa lên võng, cáng về hậu cứ. Sáng ngày hôm sau, đơn vị tiến hành khâm liệm và an táng đồng đội, miền Tây Nam Bộ lúc đó đang mùa nước nổi, không có đất để mai táng, thi thể đồng đội và chai bia lade đóng kín nắp bên trong chứa tờ giấy họ tên, quê quán, đơn vị và ngày hy sinh được gói trong tấm tăng đặt lên bờ ruộng, lấy bùn đắp lên thành mộ, rồi tiếp tục lên đường vào trận mới.
Sau ngày đất nước thống nhất, mộ phần của các liệt sĩ hy sinh được cải táng về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Long An. Mỗi năm, đến ngày 24-5, vợ chồng ông Nguyễn Vũ Tiến lại làm mâm cơm, hương khói, tưởng nhớ liệt sĩ Lê Đình Thành và đồng đội để tri ân những người đã ngã xuống vì sự nghiệp thống nhất đất nước.
TS Nguyễn Vũ Tiến bên mâm cơm cúng tưởng nhớ liệt sỹ Lê Đình Thành và đồng đội ngày 24-5-2022
Nguyễn Vũ Tiến viết, đêm trước lúc hy sinh, Thành có tâm sự với đồng đội: “Bao giờ ra Bắc sẽ tán, yêu và hôn cho được cô em gái 17 tuổi (chả hiểu sao phải đúng 17 tuổi). Khi Thành mất, đồng đội luôn tâm niệm sẽ thay bạn thực hiện nguyện ước đó, nhưng đến bây giờ chưa anh nào làm được, bởi khi chưa có luật thì chẳng dám làm, giờ đã dám thì lại có luật, mà theo luật thì 17 vẫn là trẻ vị thành niên. Mày làm khó chúng tao quá, Thành ơi!”
Nguyễn Sửu
[1] Trường Phổ thông cấp 3 Bắc Quảng Ninh nay là trường THPT Lương Thế Vinh, tỉnh Quảng Bình.
[2] Trường Đại học Bách khoa nay là Đại học Bách khoa Hà Nội.
[3] Trường Đại học Kinh tế Kế hoạch được thành lập năm 1956 nay là trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
[4] Nay là huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
[5] Nay là huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
[6] Mặt trận B2 gồm các Quân khu 6, 7, 8, 9 và Quân khu Sài Gòn – Gia Định.
[7] Tống Lê Chân nay trở thành trại giam của Bộ Công an, nằm ở xã Minh Tâm, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
[8] Tỉnh Bình Long nay là hai tỉnh Bình Phước và Bình Dương.
[9] Nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.
[10] Đại tá Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933 tại tỉnh Sơn Tây), sau là Chuẩn tướng ông là một trong 5 tướng lĩnh VNCH tự sát ngày 30-4-1975.
[11] Tỉnh Quảng Đức nay là tỉnh Đắk Nông.
[12] Nay là huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
[13] Bài viết của TS Nguyễn Vũ Tiến đăng trên facebook cá nhân ngày 14-8-2020.
[14] Bài viết của TS Nguyễn Vũ Tiến, đã dẫn.
[15] Bài viết của TS Nguyễn Vũ Tiến, đã dẫn.