Trong căn phòng ấm cúng tại phố Ngô Tất Tố, Hà Nội, GS Lê Đăng Hà đã kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện thuở thiếu thời của mình, đặc biệt là những kỷ niệm về quê hương Thanh Hóa, và ông cho rằng mình rất may mắn khi được dạy bảo, chỉ dẫn bởi những người thầy và cùng học với những người bạn rất tài năng.
Ông cho rằng chính tình yêu thương quê hương với cây đa, bến nước, sân đình đã tạo nên tình yêu đất nước trong ông … Thú vị hơn cả là cái thời trường phổ thông Đào Duy Từ sơ tán về làng Cốc Thượng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Ở đó ông được học các thầy giáo mẫu mực: Đinh Xuân Lâm, Đoàn Hồng,…, được học với những người bạn như: Vũ Tuyên Hoàng, Hà Minh Đức, Phan Diễn,… Ông còn nhớ hồi đó việc học tập rất khó khăn, thiếu sách vở nhưng may mắn bạn học có nhiều người là con em của những người nổi tiếng: Vũ Ngọc Phan, Phan Thanh,… Khi sơ tán họ mang theo rất nhiều sách, vì thế mà ông có điều kiện mượn để đọc, mở mang kiến thức. Những cuốn sách, tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn và của các tác giả Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… đều được các bạn chia nhau đọc, mỗi người được đọc hai ngày, đọc những đoạn hay thì ghi lại vào vở để rồi phục vụ cho môn tập làm văn. Không chỉ đam mê văn chương, ông và các bạn trong lớp còn rất “lãng mạn” thích ca hát và thuộc rất nhiều bài hát cách mạng với những nhạc phẩm của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý . Cũng chính thời kỳ này, các thầy giáo đã gieo cho ông và các bạn đồng học phương pháp tự học, là tiền đề để sau này ông dấn bước vào con đường học Đại học và nghiên cứu khoa học.
Trở thành một nhà Y học có nhiều đóng góp nhưng GS Lê Đăng Hà cho rằng có được như vậy là may mắn được đào tạo rất bài bản và được học các thầy tuyệt vời : thầy Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Đặng Văn Chung, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp,… ,do đó ông không chỉ học được chuyên môn mà còn học đạo đức nghề nghiệp, nhân cách sống,… Hồi học Đại học Y việc đáng chú ý nhất là phải học tiếng Pháp, nếu không tự học tiếng Pháp thì sẽ không hiểu được các thầy nói gì và không thể tiếp thu bài một cách hiệu quả. Ông nhớ lại mỗi khi có buổi thực hành của các thầy, khi các thầy chỉ định người này đo mạch, người kia đo huyết áp, nhiệt độ,…các thầy giảng giải bằng tiếng Việt, nhưng cũng thường dùng các từ chuyên môn bằng tiếng Pháp. Chính vì thế ông phải tự học tiếng Pháp, không những là để nghe bài giảng của các thầy mà còn để đọc tài liệu, nghiên cứu. Sau này trước khi sang Liên Xô học tập ông đã tự học tiếng Nga, rồi học tiếng Anh, đó là công cụ trong việc tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu phục vụ giảng dạy cho sinh viên và nghiên cứu khoa học.
Nhìn những cuốn sổ tay tự học ngoại ngữ và ghi chép lại các tài liệu tiếng nước ngoài từ thư viện và từ sách mượn của bạn bè cùng lớp như Phan Diễn, Vũ Tuyên Hoàng…của GS Lê Đăng Hà, chúng tôi không khỏi thán phục về một thế hệ các nhà khoa học được đào tạo từ những năm 50, 60 của thế kỷ trước.
Nguyễn Thị Bích Phương
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt