Sau khi thi đỗ tú tài phần II trường Louis Parteur (năm 1944), Nguyễn Văn Nhân thi vào trường Đại học Y khoa khoá đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 do GS Hồ Đắc Di làm Hiệu trưởng. Học được một năm thì Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (12-1946), Nguyễn Văn Nhân đi phục vụ ở Cục Giao thông – Công binh do thầy Hoàng Đạo Thuý làm Cục trưởng, trụ sở ở một ngôi đình cách Vân Đình khoảng 15-17 cây số. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Văn Nhân cũng đã tham gia sinh hoạt trong tổ chức Hướng Đạo Sinh Việt Nam của nhà giáo Hoàng Đạo Thuý từ Thiếu sinh lên Tráng đoàn Nhị Khê. Nhiệm vụ của các tráng sinh lúc đó là chuyển giao các công văn, mệnh lệnh…, cũng có lúc đi hộ tống bàn giao đạn dược vũ khí, nhận đạn pháo từ Pháo đài Láng, chuyển lên ô tô, đi đêm tiếp ứng cho pháo đài Phùng.
Nguyễn Văn Nhân (ngồi) tham gia tổ chức Hướng đạo sinh.
Ảnh chụp tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội
Được tin trường Y chuyển lên chiến khu Việt Bắc để tiếp tục dạy và học, Nguyễn Văn Nhân xin thôi công tác ở Cục Giao thông – Công binh về truờng Y khoa kháng chiến học tiếp. Ông tự đi lên tìm trường, qua Tuyên Quang đi lên đường Hà Giang đến cây số 31 rẽ đi chợ Bợ, qua Đèo Gà, lên Chiêm Hoá, vào Ngòi Quẵng.
Học đến năm thứ 4, Trường gửi sinh viên đi thực tập ở các nơi. Ông xin về khu III- nơi có trạm Giải phẫu lưu động A do thầy Hoàng Đình Cầu phụ trách, ở làng Chuôn (Ứng Hoà, Hà Đông). Trạm Giải phẫu xây dựng trên cơ sở của nhà hộ sinh nhỏ ở làng Chuôn (còn gọi là Chuôn-Tre) nằm ngay trên bờ con sông đào từ Đồng Quan đi Cống Thần-Chợ Đại. Giường bệnh là những chõng tre hoặc phản gỗ…nhưng hầu như lúc nào cũng đầy bệnh nhân. Phụ trách nhà mổ này là ông Khang “già”.
Được ăn ở cùng với nhân viên y tế ngay tại trạm, các sinh viên thực tập may mắn được coi nhưsinh viên nội trú không những của trạm Giải phẫu A mà cả của nhà hộ sinh Chuôn. Hồi đó bộ đội, du kích dân quân và nhân dân bị thương ở một phần Hà Nội đều được đưa về xử trí ngoại khoa ở trạm Giải phẫu A. Các vết thương chiến tranh đủ các loại rất phong phú: từ sọ – não đến bụng, lồng ngực, gãy xương, dập nát chi…. Mỗi khi có thương binh, sinh viên được tiếp xúc đầu tiên, thực hiện các khâu khám xét, sơ cứu, làm chẩn đoán, dự kiến chỉ định xử trí… sau đó mới vào làng báo cáo với thầy Cầu và các anh lớp trên. Khi thầy và các anh lớp trên xem xét, duyệt lại chỉ định rồi mới quyết định xử trí. Các ca điều trị đầu tiên phần lớn do thầy Cầu và các anh lớp trên trực tiếp mổ, sinh viên thực tập được phụ mổ hoặc đứng quan sát và ghi chép. Thầy Cầu thường xem lại chẩn đoán rồi rửa tay và vào mổ, rất ít giảng giải. Có lẽ đây là một phương pháp giảng dạy thầy Cầu đòi hỏi sinh viên phải tập trung cao độ để theo dõi các thao tác trong quá trình thầy xử trí cho bệnh nhân và phải ghi chép một cách cẩn thận. Những chỉ bảo ngắn gọn, xúc tích của thầy trực tiếp trên thương binh chính là những bài học quý báu cho sinh viên khi theo học nghề này. Nắm được phương pháp giảng dạy ấy, Nguyễn Văn Nhân và sinh viên Đinh Văn Lạc bàn nhau: ai không phải phụ mổ, sẽ đứng ngoài ghi chép, vẽ lại các thì mổ và kỹ thuật mổ. …Cứ thế, sau vài ba ca mổ mỗi loại, sinh viên lại xem lại các ghi chép của mình và tự soạn ra kỹ thuật và các thì mổ cho từng loại phẫu thuật (ví dụ cắt cụt chi ở từng vị trí, mổ nội tạng bụng, mổ vết thương lồng ngực…) làm tài liệu tham khảo riêng cho cá nhân.
Tuy thầy và các anh ít giảng giải, tài liệu sách vở tham khảo thiếu thốn nhưng hồi đó thương binh nhiều, đủ cácthương tật, lại được trực tiếp khám xét, phụ mổ, theo dõi sau mổ nên sinh viên thực tập có cơ hội phát triển kiến thức chuyên môn.
Khi đã ít nhiều học được kinh nghiệm từ thầy Cầu và các anh khoá trên, sau khi thầy Cầu duyệt lại chẩn đoán, quyết định hướng xử trí, thầy cho sinh viên được tự làm những phẫu thuật cắt lọc, cắt cụt chi ở chi trên và cẳng tay.
Đến năm 1949, thầy Cầu chuyển về làm Hiệu trưởng trường Y sĩ Liên Khu III và IV, thầy Nguyễn Hữu từ trạm Giải phẫu B ở Ngọc Bài (Sơn Tây) về phụ trách trạm Giải phẫu A.
Giáo sư Nguyễn Văn Nhân kể: Ngay từ những năm đầu học trường Y, hình ảnh thầy Nguyễn Hữu đã in đậm trong tâm trí tôi khi được đi theo thầy Di, thầy Tùng điểm bệnh ở tất cả các buồng bệnh của Bệnh viện Phủ Doãn. Các thầy trẻ như: Phạm Biểu Tâm, Hoàng Đình Cầu, Nguyễn Hữu bao giờ cũng phải có mặt đầy đủ. Khi thầy Di "truy" hỏi gì thì các thầy trẻ lần lượt trả lời. Gặp các vấn đề mà các câu trả lời chưa thoả mãn thầy Di lại gọi hỏi thầy Hữu. Và bao giờ thầy Nguyễn Hữu cũng trả lời thoả mãn người đặt câu hỏi, dù là thầy Di hay thầy Tùng.
Thầy Hữu và cô Nga-y tá (cũng là vợ của thầy) mượn một căn buồng nhỏ, cùng ở ngay trong khu vực nhà hộ sinh. Tôi luôn so sánh phương pháp giảng dạy giữa thầy Cầu và thầy Hữu. Nếu như thầy Cầu rất ít giảng thì trái lại, thầy Hữu ngay từ những ngày đầu về trạm giải phẫu A đã đặt ra nếp học tập: thầy lên lớp giảng cho sinh viên về kỹ thuật xử trí các loại vết thương chiến tranh. Khi có thương binh, vừa làm, thầy vừa nhắc lại, hướng dẫn thực tế từng thì mổ.
GS Nguyễn Hữu (thứ 2, hàng thứ nhất từ trái sang) cùng tập thể nhân viên trạm Giải phẫu A và sinh viên
trước nhà hộ sinh Chuôn, Hà Đông, 1949-1950. Nguyễn Văn Nhân đứng thứ 4 (x)
Khi phụ mổ cho thầy Hữu, sinh viên vừa thích thú, vừa sợ hãi. Thích thú vì được chỉ dẫn, được gợi nhớ lại nhiều, cả về giải phẫu và kỹ thuật ngoại khoa, nhưng sợ hãi vì trước khi chỉ dẫn, bao giờ thầy cũng vặn hỏi và sinh viên chúng tôi rất sợ “lòi” những chỗ dốt của mình trước mọi người. Trong từng bước mổ, thầy thường hay hỏi: cơ gì đây? nhánh gì đây…rồi khi chúng tôi trả lời sai hoặc không đầy đủ thì thầy lại đọc vanh vách như lật sách ra vậy.
Được ở gần thầy Hữu tôi mới hiểu vì sao thầy giỏi, thầy biết nhiều. Tất cả là vì thầy chăm học. Ngay thời gian ngắn sau khi về trạm giải phẫu A, thầy đã liên hệ nhờ bên Biệt động thành móc nối với thầy Phạm Biểu Tâm gửi cho tài liệu sách vở mới. Tôi còn nhớ khi nhận được bộ sách mới Traité de Pathologie chirurgicale, thầy đã nghiền ngẫm và lập tức tổ chức bắt chúng tôi cùng học thông qua việc thuyết trình lại trước lớp từng phần bài giảng của thầy. Đến buổi học, nếu không bận có cuộc mổ, tất cả sinh viên tập trung và lần lượt từng người trình bày, thầy yêu cầu người khác bổ sung, rồi thầy lại tự bổ sung, nhận xét và kết luận. Một thời gian sau, thầy lại thay đổi cách học tập bằng cách thầy chỉ đưa ra chủ đề sẽ thuyết trình, sinh viên sẽ phải cùng đọc và nghiên cứu. Đến giờ thì từng người sẽ bốc thăm, chuẩn bị 10-15 phút và trả lời. Tôi còn nhớ mãi đến bây giờ không khí những buổi học như vậy: vừa lo âu, vừa hào hứng. Lo âu vì sợ mình quên sót, hoặc chuẩn bị không kỹ. Hào hứng vì cách học rất sinh động, dễ nhớ, bắt buộc mỗi người phải chủ động mà học. Sách chỉ có một bộ mà ai cũng phải đọc và chuẩn bị, chúng tôi đều đóng vở rồi cặm cụi mượn sách ghi chép lại nguyên văn từng bài, từng chương của sách. Có hình vẽ thì vẽ lại, không biết vẽ đẹp thì phải căn ke bằng giấy pơ luya".
Đối với Nguyễn Văn Nhân, thầy Hữu còn là tấm gương sáng về sự ham mê, tác phong và phương pháp làm chuyên môn kỹ thuật. Sau mỗi ca mổ, bất kể lớn nhỏ, thầy Hữu ghi chép rất cụ thể, chi tiết các mô tả thương tổn, cách xử trí… Mỗi một bệnh nhân thầy Hữu mổ, những tình hình diễn biến sau mổ của mỗi bệnh nhân thầy đều ghi thêm ngay vào bên, hoặc dưới phần biên bản phẫu thuật. Ngoài ra, thầy còn "lượm" những vỏ bao thuốc lá, lật trái ghi mặt sau ghi chép đặc kín những phân tích nhận xét, rút kinh nghiệm…
Thầy Cầu và thầy Hữu, mỗi thầy có phong cách khác nhau nhưng được học tập kinh nghiệm của các thầy, sau này khi ra trường công tác, học tập và nghiên cứu, Nguyễn Văn Nhân đều ghi chép một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Nhờ đó mà ông có thể tổng kết, theo dõi rút kinh nghiệm và thực hiện những đề tài nghiên cứu khoa học khác nhau. Gần 10.000 tư liệu liện vật của GS Nguyễn Văn Nhân hiện đang lưu giữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, gồm nhiều loại hình hiện vật khác nhau: Sổ ghi chép; Bản thảo đề tài, báo cáo nghiên cứu khoa học; Ảnh tư liệu…như minh chứng cho điều đó.
Trong sâu thẳm tâm thức của GS Nguyễn Văn Nhân, được học từ các thầy đầu ngành của ngành Y như: thầy Tôn Thất Tùng, thầy Đặng Văn Chung, Thầy Đinh Văn Thắng…là một vinh dự lớn. Nhưng hai năm thực tập thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với ông.
Hai năm không phải là dài nhưng những kinh nghiệm quý báu học được ở các thầy đã giúp GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân đứng vững bên bàn mổ, thực sự cứu giúp được thương binh, người bệnh trong những năm công tác độc lập, trở thành chuyên viên đầu ngành Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Mỗi khi kể lại, ông không quên nhắc đến công lao của những người thầy đáng kính dù các thầy đã đi xa: "Tôi coi những gì tôi làm được đều là nhờ sự tài ba, công lao to lớn của các thầy, trong đó có thầy Hoàng Đình Cầu và thầy Nguyễn Hữu".
Hoàng Thị Liêm