Kỹ sư hàm thụ trở thành Phó tiến sĩ

Mỗi người có những lý do riêng để lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân, có thể do ảnh hưởng truyền thống của gia đình; sở thích cá nhân… GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung đến với ngành Lâm nghiệp bởi “không có sự lựa chọn nào khác”.

Không theo thông lệ

Tốt nghiệp tiểu học năm 1951 tại xã Xuân Lũng quê nhà, Nguyễn Ngọc Lung học tiếp cấp II ở trường Xuân Huy, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Lúc Nguyễn Ngọc Lung tốt nghiệp cấp II cũng là thời gian mẹ ông bị quy là địa chủ, khiến cuộc sống của gia đình gặp nhiều khó khăn. Cậu bé Nguyễn Ngọc Lung phải lên ở cùng cha khi đó đang công tác ở Xuân Lũng, bán hàng xén như băng phiến, ngòi bút, kim băng… để góp phần trang trải cuộc sống gia đình.

Năm 1956, vì muốn thoát ly nhưng mới tốt nghiệp cấp II nên Nguyễn Ngọc Lung làm đơn dự thi vào trường Trung cấp Nông lâm. “Đây là ngành ít người vào học. Do không đủ số người dự thi theo chỉ tiêu nên tất cả thí sinh nộp đơn đều trúng tuyển. Từ Phú Thọ, tôi đi đò dọc theo sông Lô về Hà Nội học khóa 3, trường Trung cấp Nông lâm, khi đó đóng ở Chèm”- Giáo sư Lung kể lại.

Đầu năm 1960, sau khi tốt nghiệp loại khá trường Trung cấp Nông lâm, Nguyễn Ngọc Lung may mắn là một trong 5 người được cử về công tác tại Học viện Nông lâm[1] đóng tại Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Trong 3 năm đầu, ngoài làm nhiệm vụ làm trợ lý thực tập và giảng dạy, Nguyễn Ngọc Lung cũng đã hoàn thành chương trình học phổ thông cấp III theo hệ 10 năm do công đoàn của Học viện tổ chức học bổ túc vào buổi tối. 

Năm 1962, theo chủ trương mới của Nhà nước về đào tạo cán bộ, sau khi có bằng phổ thông cấp III, Nguyễn Ngọc Lung tiếp tục thi vào Khoa Hàm thụ tại chức, Học viện Nông lâm. Lớp hàm thụ đại học học về Lâm nghiệp đầu tiên chỉ có 18 người thi đỗ, trong đó có 5 người ở Học viện (Năm 1963 Học viện đổi tên thành trường Đại học Nông nghiệp). Cơ sở học ngay tại nơi làm việc nên rất thuận lợi cho học tập của Nguyễn Ngọc Lung. Đối tượng là cán bộ vừa học vừa làm nên việc học và thi được tổ chức một cách tập trung. Chương trình năm thứ nhất và năm thứ hai, các học viên được học các môn cơ bản như: Toán, Vật lý, Hóa vô cơ, Hóa phân tích, Hóa hữu cơ, Trắc lượng, Chính trị kinh tế học… Từ năm thứ 3 đến năm thứ 5, học viên học sâu vào các môn chuyên ngành: Điều tra, quy hoạch; trồng rừng, thống kê, bệnh cây…

Cuối năm 1964, khi trường Đại học Lâm nghiệp chuyển xuống Đông Triều, Quảng Ninh, trong mỗi đợt học tập trung, Nguyễn Ngọc Lung phải đạp xe từ Hà Nội về Quảng Ninh để học và dự thi. Nhớ lại những ngày tháng vừa làm, vừa học, Giáo sư Lung chia sẻ: “Một trong những động lực khiến tôi quyết tâm học đó là đối xử của xã hội. Tôi nhớ ngày đó tôi ở cùng với 5 người khác trong một phòng và chỉ có một chiếc bàn ở giữa, không giống như chế độ đãi ngộ đối với sinh viên đại học. Điều đó khiến tôi cảm thấy mình chỉ là “công dân loại 2″, từ đó tôi có quyết tâm học tập để đạt kết quả cao. Thứ nữa là sự ủng hộ của các thầy, động viên tôi muốn giảng dạy được thì chí ít cũng phải có bằng đại học”. 

Kết thúc 5 năm học, ông Vũ Hân – Chủ nhiệm Khoa Hàm thụ tại chức nhận xét kết quả học tập của sinh viên Nguyễn Ngọc Lung như sau: “Đã có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn, kết hợp tốt công tác và học tập, kết quả mỗi năm một tiến bộ. Khả năng tiếp thu nhanh. Nhận thức tốt. Nắm được kiến thức cơ bản. Đi sâu nghiên cứu chuyên môn. Thi tốt nghiệp kết quả tốt. Ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Đoàn kết xây dựng tập thể. Nhiệt tình giúp đỡ bạn. Đôi lúc còn tỏ ra chủ quan trong học tập”[2].

Ngày 1-7-1968, Nguyễn Ngọc Lung được Bộ Giáo dục cấp bằng kỹ sư lâm nghiệp, hệ Hàm thụ tại chức, với điểm thi môn Lâm học đại cương và Điều tra rừng đều đạt điểm 5 – điểm giỏi.

Cơ hội “có một không hai”

Tấm bằng Đại học như mở ra một cơ hội để KS Nguyễn Ngọc Lung có điều kiện tiếp tục học tập nâng cao trình độ, nhưng việc xét tuyển để được đi học, nhất là ở nước ngoài không phải là đơn giản. Tuy nhiên, một may mắn đã đến với kỹ sư Nguyễn Ngọc Lung, đó là năm 1971, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Tạ Quang Bửu ra chủ trương: Để đảm bảo chất lượng, những người đi học Sau đại học đều phải thi, ai có năng lực thì tham gia dự đi và không phân biệt thành phần. Những người học hàm thụ hoặc chuyên tu đều được dự thi.

GS Nguyễn Ngọc Lung không giấu nổi niềm vui khi nhớ lại cơ hội “có một không hai” này. Ông kể: “Trước đó, những người đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài không phải thi, do nhà nước lựa chọn cử đi. Có sự lựa chọn ưu tiên, như các cán bộ thuộc Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, cán bộ đảng viên, các đoàn viên ưu tú”. Với chủ trương mới, 20 người thuộc ngành Lâm nghiệp được Vụ Tổ chức cán bộ thuộc Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước[3] lựa chọn cử đi dự thi nghiên cứu sinh, trong đó có kỹ sư Nguyễn Ngọc Lung là học hàm thụ và và ông Trịnh Đình Thanh học chuyên tu. Sau kỳ thi, Kỹ sư Lung là người có điểm số cao nhất và là một trong số 8 người được lựa chọn đi nghiên cứu sinh, đó cũng là niềm vui nhưng trách nhiệm đặt lên vai người kỹ sư trẻ cũng nặng nề hơn. Ông Cư – cán bộ Vụ Tổ chức cán bộ nói vui với Nguyễn Ngọc Lung: Nếu anh học không tốt, không bảo vệ được luận án Phó Tiến sĩ, những người học hàm thụ sau này không được cử đi học ở nước ngoài là do anh.

Tuy nhiên, chủ trương những người học hàm thụ và chuyên tu được dự thi nghiên cứu sinh chỉ được Bộ trưởng Tạ Quang Bửu “thí điểm” trong năm 1971 nhằm kiểm tra chất lượng đào tạo.

Nghiên cứu sinh Nguyễn Ngọc Lung cùng thầy hướng dẫn – GS Moiseev, năm 1975

Trước đó, năm 1971, kỹ sư Nguyễn Ngọc Lung được Viện nghiên cứu lâm nghiệp giao làm chủ nhiệm đề tài lập biểu sản phẩm công nghiệp cây gỗ đứng rừng hỗn loạn lá rộng ở miền Bắc Việt Nam nhằm đánh giá sơ bộ số lượng gỗ trước khi khai thác trong một khu rừng đồng thời phục vụ cho việc thống kê tài nguyên gỗ trong khai thác kinh doanh, điều tra quy hoạch rừng. Khi đề cương nghiên cứu được Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp phê duyệt thì cũng là lúc kỹ sư Nguyễn Ngọc Lung nhận quyết định chuẩn bị sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Ông đã phát triển đề cương nghiên cứu này làm đề tài luận án Phó Tiến sĩ. Tuy nhiên, theo quy định lúc bấy giờ, các số liệu trong nước không được đưa ra nước ngoài nên KS Lung được thầy hướng dẫn – GS Moiseev định hướng cho ông nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu kết cấu rừng và cấu trúc sản phẩm các lâm phần Sơn dương, áp dụng cho các liên hiệp lâm nghiệp vùng tây bắc Lêningrat”. Giáo sư Lung kể lại: “GS Moiseev có vai trò rất lớn trong việc định hướng nghiên cứu. Trước khi nhận tôi, thầy giao cho tôi một cuốn sách, yêu cầu tôi đọc và trả lời theo yêu cầu của thầy. Nếu không đáp ứng được yêu cầu, thầy sẽ từ chối việc nhận hướng dẫn nên ngay từ đầu tôi đã đọc rất kỹ để trả lời thầy. Khi được thầy nhận và tin tưởng, hai thầy trò cùng lập chương trình làm việc. Thầy rất tôn trọng ý kiến cá nhân của tôi và yêu cầu tôi phải độc lập nghiên cứu”.

Trong thời gian làm học tập, nghiên cứu tại Học viện Kỹ thuật Lâm nghiệp Lêningrat, Liên Xô (1973-1977), nghiên cứu sinh Nguyễn Ngọc Lung còn nhận được sự giúp đỡ không những của các Trưởng Bộ môn, đồng nghiệp nơi ông học tập mà còn của các giám đốc các lâm trường trồng cây Sơn dương để xin tài liệu tham khảo. Từ những số liệu có được, nghiên cứu sinh Nguyễn Ngọc Lung tập trung xử lý và trong một năm để hoàn thiện luận án. Năm 1977, nghiên cứu sinh Nguyễn Ngọc Lung  đã bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ, được Hội đồng đánh giá cao, luận án có giá trị áp dụng trong thực tiễn vì nghiên cứu sinh Nguyễn Ngọc Lung đã sử dụng toán học thống kê trong việc lập biểu sản phẩm.

Con đường từ trường trung cấp nghề, quay lại học phổ thông rồi lên học hàm thụ và trở thành Phó tiến sĩ của GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung là một con đường gập ghềnh, không theo như thông lệ nhưng cũng nhiều may mắn. Trên hết, kết quả có được chính là nhờ sự nỗ lực học tập, nghiên cứu không ngừng của một người luôn muốn được học hỏi.

Hoàng Thị Liêm

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam


[1] Năm 1963 đổi tên thành trường Đại học Nông nghiệp. Từ năm 1964, phân chia thành 8 đơn vị (trường, viện) trong đó có một đơn vị là trường Đại học Lâm nghiệp. 

[2] Học bạ thời học Đại học của GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung, hiện đang lưu giữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

[3] Nay là Bộ Khoa học và Công nghệ