Tháng 6-1965, học trò Vũ Thường Bồi tốt nghiệp trường cấp III Lý Tự Trọng (huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Với thành tích học tập tốt, ông cùng 3 bạn cùng khóa được làm hồ sơ đi học tại nước ngoài (các nước xã hội chủ nghĩa). Đây là năm đầu tiên nhà nước không tổ chức thi vào đại học, trung học chuyên nghiệp như mọi năm mà căn cứ vào học bạ, hồ sơ của học sinh để xét tuyển. Đến tháng 10-1965, nhiều bạn đã được gọi nhập học các trường đại học trong nước như Đại học Bách khoa, Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm… Hai bạn Nhậm và Hải đã được gọi đi học ở Rumani và Cộng hòa dân chủ Đức, nhiều bạn được gọi sang học ở Trung Quốc. Riêng học trò Bồi vẫn ngày ngày ra ngõ ngóng chờ bưu tá xem có giấy báo gì không? Cuối tháng 10-1965, ông Bồi nhận được giấy báo triệu tập nhập học vào khoa Hóa, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Gia đình rất vui và tự hào vì ông là người đầu tiên của xã được vào đại học. Đó là điều vô cùng vinh dự. Tuy nhiên, chàng thanh niên chân ướt chân ráo bước vào cổng trường đại học vẫn băn khoăn tại sao mình bị nhập học muộn hơn so với các bạn trong lớp. Sau này ông mới biết vì vấn đề “xét lại” nên việc sang Liên Xô học không thành, hồ sơ được chuyển về trường Đại học Tổng hợp Hà Nội muộn. Khi làm hồ sơ đại học, nguyện vọng của ông Bồi là ngành vô tuyến điện tử, tuy nhiên nhà trường xếp ông vào khoa Hóa học.
TS Vũ Thường Bồi trong buổi làm việc với nghiên cứu viên Trung tâm, tháng 10-2022
Lần đầu tiên xa nhà, gia đình lo làm thủ tục nhập học cho con và dặn dò cẩn thận mọi điều. Khoảng 3 giờ chiều, ông Bồi chia tay mọi người và được bạn thân đèo xe đạp ra ga tàu ở Đặng Xá cách ga Nam Định khoảng 5km vì ga Nam Định đã bị máy bay Mỹ đánh bom phá hủy chưa khôi phục hoàn toàn. Nhớ lời dặn, khi đến ga Hàng Cỏ đã 9 giờ tối, ông Bồi xuống ga, tìm nhà trọ gần nhất nghỉ lại qua đêm. Sáng hôm sau, ông đến trường ở số 19 Lê Thánh Tông bằng xe xích lô – phương tiện đi lại phổ biến của người dân Việt Nam từ những năm giữa thế kỷ XX. Lần đầu lên Hà Nội, điều đầu tiên ông cảm nhận về Hà thành là cảnh quan thật đẹp. Nhưng rồi ông lại có chút hẫng hụt vì sau khi nộp các giấy tờ để nhập học, ông nhận được thông báo chuẩn bị đi sơ tán. Ông chỉ có một tuần ở trường để hoàn tất thủ tục nhập học và nghe phổ biến các thông tin cho việc di chuyển đến nơi sơ tán.
Từ năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt. Đế quốc Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, nhiều công trình, cơ quan, trường học… bị tàn phá. Theo tinh thần Chỉ thị số 88/TTg-VG ngày 5-8-1965 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện công tác giáo dục từ điều kiện thời bình sang thời chiến, từ đào tạo tập trung tại Hà Nội sang sơ tán, phân tán về các địa phương, trường Đại học Tổng hợp được sơ tán lên huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái1. Lãnh đạo nhà trường phân các khoa về các xã Văn Yên, Ký Phú, Vạn Thọ, Lục Ba.
Thầy và trò trường Đại học Tổng hợp trong thời gian ở Đại Từ (Ảnh sưu tầm)
Thầy trò khoa Hóa được phân về xóm Bầu, xã Văn Yên và bắt đầu gây dựng cơ sở của khoa vào tháng 10-1965 với nhiều khó khăn, vất vả. Về nơi ăn ở, sinh viên được bố trí ở nhà dân, mỗi gia đình nhận từ 2-3 sinh viên. Nhóm ông Bồi có 3 người, trong đó anh Quang quê Hà Tĩnh, là cán bộ địa chất được gửi đi học và bạn Lỗ Bá Mai người huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú2… Gia đình chủ nhà sắp xếp cho ba sinh viên một chiếc giường. Còn việc ăn uống, nhà trường tổ chức bếp ăn tập thể, mỗi mâm cơm khoảng 5-6 người. Thức ăn chỉ có ít thịt, canh rau gọi là “canh toàn quốc” vì ít rau nhiều nước. Nhưng kể lại, ông nói: Trong thời buổi khó khăn, lượng thức ăn như vậy là “tương đối”, tất nhiên với sức thanh niên, ăn như vậy chúng tôi vẫn thấy đói3. Chính vì thế, sinh viên thường mua sắn để luộc ăn thêm. Vùng đất Thái Nguyên trồng rất nhiều loại sắn ngon. Ông vẫn nhớ 1 hào mua được 2kg sắn. Sinh viên được phân công vào rừng kiếm củi để hỗ trợ nhà bếp nấu ăn. Hàng tuần phải đến cửa hàng lương thực cách xa vài ba cây số gánh gạo về cho nhà bếp. Ông Bồi cho biết: Gánh củi, gánh gạo là cực hình đặc biệt với các bạn nữ thành phố chưa từng biết đặt đòn gánh lên vai. Nhưng với quyết tâm của bản thân và sự giúp đỡ của mọi người, các bạn ấy đều quen dần và trở nên thuần thục4. Mỗi tổ có khoảng 15 người. Cùng với việc ổn định chỗ ăn ở, mọi người cùng nhau xây dựng cơ sở vật chất, phục vụ việc dạy và học. Thầy và trò mượn dụng cụ của dân làng, vào rừng kiếm gỗ, tre, vầu hoặc nứa đem về dựng lớp học, phòng thí nghiệm, làm bàn ghế, bếp nấu ăn… Thầy trò khoa Hóa còn cùng nhau đào giếng để có nguồn nước, may mắn nước giếng đạt yêu cầu nên có thể lấy để làm nước cất phục vụ thí nghiệm và dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng tất cả thầy và trò khoa Hóa cùng nhau chia sẻ, đoàn kết và cố gắng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Năm học đầu tiên, các sinh viên được học 4 môn, gồm: hóa cơ bản, toán, triết học và Nga văn. Đối với môn Nga văn, sinh viên chủ yếu học về ngữ pháp để đọc hiểu tài liệu tham khảo. Bên cạnh đó, các thầy cô còn truyền đạt về ngoại ngữ chuyên ngành. Vì khối lượng kiến thức lớn nên sinh viên Bồi thường ghi lại những vấn đề thầy giảng chưa hiểu rõ để tìm hiểu thêm ở sách tham khảo. Thư viện của trường có rất nhiều sách, giáo trình cho giảng viên và sinh viên nghiên cứu. Nguồn tài liệu chủ yếu là sách Liên Xô có nội dung “sâu và rộng”. Đặc biệt, ông ấn tượng với cách chú thích nội dung ở cuối mỗi trang sách rất khoa học.
Những năm sơ tán, sinh viên được về quê vào dịp Tết và dịp nghỉ hè. Trong hoàn cảnh chiến tranh phá hoại ác liệt của không quân Mỹ, đường sắt Hà Nội – Thái Nguyên bị phá hủy ở các ga Quán Triều, Lưu Xá, Thái Nguyên… Mỗi lần về quê, ông Bồi phải đi bộ tầm 30-40km qua các xã Lục Ba,Vạn Thọ và khu vực hiện nay là lòng hồ Núi Cốc để ra ga Lương Sơn hoặc ga Phổ Yên lên tàu về Hà Nội. Sau đó, từ Hà Nội về Nam Định. Có khi phải dừng lại ở giữa đường vì đường sắt bị phá hỏng ở các ga Phủ Lý, Nam Định…, buộc phải đi bộ rất vất vả. Ông cũng thường giữ liên lạc với gia đình, bạn bè bằng những lá thư tay. Hòm thư thời chiến cũng được mã hóa thành T104C BC11C. Trong đó T104 là trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, C là khoa Hóa học, BC là bưu cục, 11 là tỉnh Bắc Thái, C là huyện Đại Từ. Mã hóa A là của khoa Toán, B của khoa Lý, G là Sử…
Năm học thứ hai, cả lớp chuyển sang xóm Bậu cách một cánh đồng và vẫn ở nhờ nhà dân. Ở đây sinh viên được học môn hóa phân tích và các môn cơ bản khác. Thầy Nguyễn Thạc Cát5 và thầy Nguyễn Hoán là những người đặt nền móng đầu tiên của khoa Hóa học, trường Đại học Tổng hợp. Cả hai thầy đều từng học ở Pháp trở về nước. Ông Bồi vẫn luôn nhớ mãi hình ảnh thầy Cát tận tâm chỉ bảo các sinh viên làm thí nghiệm hóa phân tích. Thêm vào đó, thầy còn truyền đạt cho sinh viên phương pháp tư duy khoa học. Thầy Hoán là chủ nhiệm đầu tiên của khoa Hóa học, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ngoài các kiến thức chuyên môn về hóa hữu cơ thầy truyền thụ, ông Bồi luôn khắc nhớ ghi tâm điều răn dạy của thầy rằng: Nghiên cứu khoa học phải luôn trung thực thì mới thành công6. Ông nhớ lại một kỷ niệm: Vào năm cuối, thầy Hoán hướng dẫn một bạn cùng lớp làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành hóa hữu cơ. Khi đi thư viện tra cứu tài liệu viết phần tổng quan, sinh viên đó do không tìm hiểu kỹ nên cho rằng đề tài này chưa có ai thực hiện. Tuy nhiên thầy Hoán phát hiện ra đề tài này đã được một tác giả nghiên cứu và công bố kết quả. Chính vì vậy, bạn sinh viên đó không thể tiếp tục làm khóa luận, phải bảo lưu một năm, tìm đề tài khác làm khóa luận tốt nghiệp. Mỗi giảng viên ở khoa Hóa đều để lại cho ông Bồi một ấn tượng riêng. Với thầy Hoàng Nhâm7 dạy môn hóa vô cơ, ông rất nể phục thầy bởi khi hỏi vấn đề gì, thầy đều trả lời ngọn ngành và truyền đạt một cách dễ hiểu. Các thầy cô không chỉ truyền đạt phương pháp nghiên cứu mà còn dạy cách tự bồi dưỡng kiến thức và phẩm chất con người cho các thế hệ sinh viên nói chung và sinh viên Vũ Thường Bồi nói riêng.
Năm thứ ba là quãng thời gian vất vả nhất về đời sống vật chất nhưng cũng chính năm học này, ông Bồi lại cảm thấy yêu thích môn hóa hơn bao giờ hết. Hai năm đầu, các sinh viên ở nhờ nhà dân, sang năm thứ ba được huy động tự làm nhà gần chân núi Tam Đảo để ở. Do gia đình có truyền thống làm nghề thợ mộc nên việc dựng nhà, đóng bàn ghế ông Bồi đã thông thạo. Lớp chia thành bốn tổ, mỗi tổ dựng một ngôi nhà ba gian để ở. Bữa ăn vô cùng thiếu thốn, suất ăn thường là bánh mỳ bằng nắm tay nhào từ bột mỳ Liên Xô viện trợ rồi hấp chín trong chiếc chảo gang thường dùng nấu cơm. Bánh khá cứng vì không có bột nở và thức ăn là xu hào kho với xì dầu và nước muối. Mỗi tối, ông thắp đèn dầu (loại đèn làm bằng ống tiêm giúp tiết kiệm dầu và tránh máy bay địch phát hiện) để học bài. Năm học thứ ba, học hóa – lý gồm các môn khó hiểu, nhiều bạn trong lớp than thở. Nhưng nhờ cách giảng giải của thầy Vũ Ngọc Ban nên ông Bồi cảm thấy không quá khó với môn Nhiệt động học, thầy Trần Văn Nhân với môn cấu tạo chất và thầy Đào Đình Thức với môn Cơ học lượng tử… Không những thế, thầy Ban còn là người dẫn dắt, truyền cảm hứng yêu thích môn hóa học cho các học trò. Đây là điều mà ông Bồi cảm thấy tâm đắc và học hỏi cho sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy sau này của mình.
Năm cuối đại học, sinh viên được phân đi sâu chuyên đề hóa vô cơ, ông Bồi được giao đề tài Nghiên cứu tính tan của quặng Đô-lô-mit làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Thầy hướng dẫn là TS Phạm Nguyên Chương, từng du học ở Cộng hòa dân chủ Đức nghiên cứu về hợp chất cơ kim. Ông cho biết: trong tự nhiên, núi đá vôi chủ yếu là hợp chất của muối canxi cacbonat (CaCO3) là quặng can xit làm nguyên liệu cho ngành vật liệu xây dựng. Một số điểm quặng còn có muối magie cacbonat (MgCO3) tạo thành quặng Đô-lô-mit. Nhiệm vụ của đề tài là tìm hiểu khả năng tan trong nước của quặng Đô-lô-mit để có thể điều chế muối magie cacbonat từ đá núi. Trong quá trình thực hiện đề tài, ông được thầy Chương hướng dẫn nghiền nhỏ quặng Đô-lô-mit như bột cám, sau đó sục khí cacbonic vào bình phản ứng nhằm tăng lượng ion cacbonat, từ đó làm tăng lượng tan quặng nhờ chuyển thành muối magie hydro cacbonat. Ông Bồi chia sẻ: Các muối trong tự nhiên có tính tan trong nước như natri clorua (NaCl) tồn tại trong nước biển, khi nước biển được cô lên đến nồng độ 28 Bome thì tinh thể NaCl tách ra dùng trong ăn uống và trong công nghiệp. Mặc dù magie cacbonat ở dạng đá Đô-lô-mit hay canxi cacbonat ở dạng can xit là đá vôi, không tan trong nước nhưng trong khoa học, chúng vẫn có một lượng tan nhất định với một hằng số cân bằng nào đó8. Khóa luận tốt nghiệp của ông Bồi nhằm tác động vào cân bằng hòa tan vô cùng nhỏ đó nhằm khai thác quặng Đô-lô-mit phục vụ đời sống.
Với TS Vũ Thường Bồi, có lẽ quãng đời sinh viên là thời gian đáng nhớ nhất, bởi đó là một thời gian khó nhưng cũng đầy ắp kỷ niệm tình người. Đó là những lúc “đói cùng đói, no cùng no”, cùng nhau đi rừng, cùng nhau học tập, cùng nhau chơi bóng chuyền, bóng đá… cùng nhau sống với bà con nhân dân… Khi hoạn nạn cũng luôn có nhau. Ông Bồi vẫn nhớ như in hình ảnh giữa đêm khuya phải khiêng bạn bị đau bụng chạy trên chặng đường đồi núi gập gềnh đến trạm y tế hay Hôm ấy là một ngày mùa xuân có mưa phùn, thầy Nhâm đang giảng bài thì nhà bếp báo hết củi nấu cơm. Thế là cả lớp dừng buổi học, rồi mượn dao, rựa vào rừng. Những con vắt xanh nhảy vào cổ áo hút máu nhưng không cảm thấy đau, về nhà cởi áo mới thấy “cục máu” rơi ra, dưới chân muỗi đốt… Những dốc núi cao đi lên đã mệt, đi xuống với gánh củi còn khó hơn. Năm học đầu tiên là năm tôi sợ hãi nhất9. Ngoài lấy củi nộp nhà bếp theo nghĩa vụ, những ngày nghỉ học, ông Bồi cùng một số bạn lên rừng kiếm củi bán cho nhà bếp. Một khối củi được ước lượng về kích thước, bán được khá tiền, đủ trang trải cuộc sống khốn khó và thỉnh thoảng cùng rủ nhau ra chợ Ký Phú ăn thắng cố hay sang phố Lục Ba ăn bánh rán có vani thơm lừng của một gia đình Hà Nội sơ tán lên…
Tháng 3-1969, đế quốc Mỹ ngừng ném bom phá hoại miền Bắc nên khoa Hóa học chuyển về Hà Nội. Khi trở về, ông Bồi tiếp tục thực hiện nghiên cứu và viết khóa luận. Khóa luận hoàn thành sau 3 tháng thực hiện. Tháng 7-1969, ông bảo vệ thành công khóa luận tốt nghiệp. Hội đồng gồm 11 thầy cô trong bộ môn Hóa vô cơ, bản khóa luận được đánh giá xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở Bộ môn hóa vô cơ của khoa Hóa, trường Đại học Tổng hợp.
Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng kỷ niệm về những tháng ngày sơ tán gian khó vẫn đậm sâu trong tâm trí của TS Vũ Thường Bồi. Một thời sơ tán với những bài học chuyên môn từ thầy cô, bài học về cuộc sống đã ngấm vào cốt tủy, là hành trang trong suốt chặng đường đời của ông sau này.
Triệu Vũ
____________________
1 Nay là huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
2 Nay là huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
3 Tài liệu ghi âm TS Vũ Thường Bồi ngày 16-10-2022, lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
4 Tài liệu ghi âm TS Vũ Thường Bồi ngày 16-10-2022, đã dẫn.
5 GS.NGND Nguyễn Thạc Cát (1913 – 2002), Phó chủ nhiệm đầu tiên của khoa Hóa học, trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội (nay là trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội).
6 Tài liệu ghi âm TS Vũ Thường Bồi ngày 16-10-2022, đã dẫn.
7 PGS.TS Hoàng Nhâm, nguyên Trưởng bộ môn hóa vô cơ, khoa Hóa học, trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội.
8 Tài liệu ghi âm TS Vũ Thường Bồi ngày 16-10-2022, đã dẫn.
9 Tài liệu ghi âm TS Vũ Thường Bồi ngày 16-10-2022, đã dẫn.