Ký ức về mẹ

 

Trước mắt tôi là hình ảnh một nhà khoa học với mái tóc bạc trắng, vầng trán cao thanh thoát đã hằn lên nhiều nếp nhăn bởi tuổi tác và những suy tư, trăn trở trong cuộc đời làm khoa học. GS.TS Trần Đình Bửu đã trải qua nhiều gian nan, vất vả khi dấn thân vào cuộc trường chinh của chính mình từ rất sớm – năm 13 tuổi (1946). Đến nay, những cống hiến của ông đối với chuyên ngành Cầu đường ở Việt Nam đã được khẳng định bằng việc ông tham gia một loạt các công việc quan trọng: Ủy viên Hội đồng thẩm định các Tiêu chuẩn Việt Nam ngành Giao thông vận tải, thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ; Ủy viên Hội đồng thẩm định các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc ngành Cầu đường của Bộ Giao thông vận tải; Tổ trưởng Tổ Chuyên gia Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng; Ủy viên Hội đồng khoa học của Hội Khoa học kỹ thuật Cầu đường Việt Nam và được tôn vinh là Nhà khoa học Kỹ thuật Cầu đường tiêu biểu… Dù đã ở bên kia con dốc của cuộc đời, những hỷ, nộ, ái, ố trong kiếp nhân sinh đều đã trải, nhưng hôm nay ông như miên man trong miền ký ức về một thời còn có mẹ. 

Theo lời kể lại của mẹ, Trần Đình Bửu sinh vào năm Nhâm Thân (1932)1 tại ấp An Hà, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chưa đầy một năm sau khi ông cất tiếng khóc chào đời, cha mẹ ông đưa cả gia đình vào sinh sống tại thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Tại đây, cha ông mở một cửa hàng buôn bán nhỏ còn mẹ ông vẫn làm công việc của một “cô đỡ” (nữ hộ sinh). Tuổi thơ Trần Đình Bửu trôi qua êm đềm trên mảnh đất miền duyên hải yên tĩnh nằm giữa hai đèo: đèo Cù Mông ở phía Bắc, đèo Cả ở phía Nam, nơi có những hàng dừa xanh, những dải cát trắng mịn và những con sóng biếc mà mỗi chiều tan học ông lại cùng đám bạn tung tăng nô đùa. Ông lớn lên trong tình yêu thương vô bờ của cha mẹ, sớm có ý thức và lòng tự hào về truyền thống của dòng họ Trần ở ngoài Huế mà cha vẫn thường hay kể – câu chuyện về tinh thần hiếu học, đức tính trung thực và lòng nhân nghĩa. Nhưng người ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với ông vẫn là mẹ. Ông nhớ lại: “Cụ đối xử với mọi người bằng một tình cảm rất đặc biệt. Cụ làm cô đỡ hết sức tận tâm tận lực trong công việc, gặp người có hoàn cảnh khó khăn Cụ đều giúp đỡ tận tình, hết sức có trách nhiệm. Đôi lúc Cụ còn đem quần áo cũ của các con để cho các em bé nghèo”. Chính những hành động ấy của mẹ đã thẩm thấu vào tâm hồn cậu bé Trần Đình Bửu từ lúc nào không hay. Sau này ông mới hiểu hết lời mẹ dạy: “Sống phải có nhân, có nghĩa, có tình”. Thời bấy giờ, ngoài công việc hộ sinh tại Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, mẹ ông còn làm ở Ban chấp hành Hội Phụ nữ và được xem là thuộc tầng lớp trí thức. Bà rất coi trọng việc học, chắt chiu từng đồng để cho các con được đến trường, vì thế dù đông con nhưng tất cả đều được đi học.

Mùa thu năm 1946, Trần Đình Bửu được cha mẹ cho ra Huế học tại trường Quốc học Huế. Nhập học chưa được bao lâu, ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, nhà trường phải đi tản cư còn địa điểm cũ ở Huế bị thực dân Pháp chiếm làm đồn bốt. Ông không đi tản cư theo trường mà quay trở vào với gia đình tại thị xã Sông Cầu. Ít lâu sau, cha ông là Chủ tịch Ủy ban ủng hộ kháng chiến thị xã Sông Cầu, đã tự tay đốt toàn bộ nhà cửa hưởng ứng theo lời kêu gọi tiêu thổ kháng chiến và đưa gia đình tản cư. Nhìn đống tro tàn trên nền đất cũ, Trần Đình Bửu mới thấm thía những lời mẹ thường hay nói: “Cha mẹ không có gì cả, chỉ để lại cho các con một ít chữ, sau này còn có nghề có nghiệp”.

Ban đầu, gia đình ông lên khu vực Đồng Dài thuộc huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên để lánh nạn, sau đó khu vực này bị ném bom, gia đình ông lại tiếp tục tản cư ra ngoài Bình Định. Có thể nói cuộc sống thời kỳ tản cư của gia đình ông là những chuỗi ngày dài gian khổ, đó cũng là hoàn cảnh chung của đất nước đang có chiến tranh. Mặc dù hàng ngày mẹ vẫn tất bật với công việc của một “cô đỡ” nhưng gia đình ông chưa bao giờ có một bữa ăn đủ no, bởi dưới ông còn 4 người em vẫn đang tuổi ăn học. Hồi đó, sau mỗi lần bà giúp người ta “vượt cạn” thành công, thù lao nhận được đôi khi là tiền, còn chủ yếu là gạo, là sắn, là khoai… để làm cái ăn cho cả nhà. GS.TS Trần Đình Bửu còn nhớ: “Có lần mẹ tôi được gọi đi đỡ đẻ, lúc về ba tôi có hỏi: Kỳ này có được gì không? Mẹ trả lời là không được gì mà chỉ giúp người ta thôi, vì người ta còn nghèo khó hơn mình”. Ông lại nhớ “Một lần vào ban đêm, người ta đưa ngựa tới đón mẹ tôi đi nhưng trên đường bà bị ngã ngựa và chệch khớp tay, phải đi bó bằng lá thuốc. Vậy mà chỉ được 10 ngày, khi tay còn chưa khỏi, bà vẫn đi tiêm thuốc cho người bệnh. Bà phải làm như vậy, không phải chỉ vì bà là lao động chính của gia đình mà còn vì trách nhiệm nghề nghiệp nữa”.

Thương mẹ vất vả, lại chịu ảnh hưởng của không khí sục sôi kháng Pháp lúc bấy giờ, cuối năm 1946, Trần Đình Bửu xin tham gia vào bộ đội, thoát ly cuộc sống gia đình, nuôi chí tự lập. Ban đầu Trần Đình Bửu được anh Vi Dân – chi đội trưởng Chi Đội 4, người dân tộc, đưa vào Đại đội Độc lập, sau đó ông được giao nhiệm vụ liên lạc trinh sát của trung đoàn 83, sau này là trung đoàn 803. Qua hơn bốn năm tôi luyện trong môi trường quân đội, năm 1951 Trần Đình Bửu trở về tiếp tục theo đuổi con đường học tập. Ban đầu ông thi vào lớp đệ tam của trường Lương Văn Chánh tại quê nhà. Chiến sự ngày càng nổ ra ác liệt, trong 3 năm ông phải thay đổi trường học liên tục qua các trường tại Bồng Sơn (Bình Định)- lớp Sư phạm, trường Nguyễn Huệ ở An Nhơn (Bình Định), trường Lê Khiết (Quảng Ngãi). Với ý chí tự lập, ông đã đi dạy thêm để dành dụm tiền trang trải chi phí sinh hoạt cũng như học tập khi sống xa gia đình. Mỗi lần về thăm nhà, mẹ ông lại ân cần căn dặn và hỏi “Con có thiếu thốn nhiều không?”. Ông tâm sự: “Sau này tôi mới biết mẹ vẫn dự trữ cho tôi. Mẹ quyết tâm cho tôi đi học nên vẫn cố gắng để dành tiền, lỡ tôi có thiếu thì bà cho”.

Năm 1954, Trần Đình Bửu làm Ủy viên thường vụ xã đoàn thanh niên cứu quốc của xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông được giao nhiệm vụ tuyên truyền cho các tù binh Âu – Phi mà ta trao trả về nước sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Trên chuyến ô tô chở tù binh tới khu vực cảng Quy Nhơn, ông nhận được tin báo chuẩn bị tập kết ra Bắc trong thời gian 2 năm. Vẫn còn nhớ như in cảm giác của mình lúc đó, ông chia sẻ: “Lúc bấy giờ tôi đang ở độ tuổi thanh niên, được ra miền Bắc học tập thì mừng quá. Tôi nói với bố mẹ rằng cố gắng ở nhà, con đi 2 năm rồi về sẽ giúp đỡ bố mẹ”. Đó cũng là nguyện vọng rất lớn của cha mẹ ông – cho con được tiếp tục đi học. Hành trang ông mang theo là “một bộ quần áo xita, một đôi dép cao su còn để dành sau khi đi bộ đội, một bộ bà ba đen và hai chiếc quần đùi do chính tay mẹ may”. Trước khi con tàu Nauy rời cảng Quy Nhơn rẽ sóng ra Bắc, mẹ bịn rịn giúi vào tay ông số tiền mà bà đã tích cóp được bấy lâu nhưng ông từ chối. Trần Đình Bửu cũng không thể ngờ rằng buổi chia tay đầy lưu luyến ấy cùng lời ước hẹn sau 2 năm gặp lại với người mẹ hết mực kính yêu của mình lại kéo dài tới hơn 20 năm. Chiến tranh, sự chia cắt giữa hai miền Nam – Bắc đã vô tình gieo xuống bao gia đình những nỗi khổ tâm, day dứt… cho người đi, và cho cả những người ở lại. Sau khi Trần Đình Bửu cùng 3 người anh em trong gia đình tập kết ra Bắc, cha ông bị chính quyền Mỹ – Ngụy gây khó dễ một thời gian, mẹ ông bị tra hỏi, trình diện tại địa phương.

Hơn 20 năm trôi qua trong xa cách, nỗi nhớ thương về người mẹ tảo tần luôn thường trực trong trái tim người con xa xứ. Tháng 3-1975 ông được Bộ Đại học cử vào Tây Nguyên với tư cách là chuyên gia trong lĩnh vực Xây dựng Giao thông- trong Đoàn của Ủy ban Thống nhất, nhằm mục đích xây dựng cơ sở vật chất, làm bàn đạp cho kế hoạch giải phóng miền Nam trong vòng 2 năm tới. Đoàn đi còn có ông Đào Thế Tuấn – chuyên gia về Nông nghiệp, ông Nguyễn Phụng Võ – chuyên gia về Kiến trúc, ông Lê Phu – chuyên gia Thủy lợi, ông Nguyễn Văn Chiển – chuyên gia Địa chất… Tuy nhiên, ngày 30-4-1975 khi các ông đi tới khách sạn Buôn Mê Thuột thì được tin miền Nam hoàn toàn giải phóng. Dù kế hoạch thay đổi, nhưng cũng phải tới tháng 5-1975, sau khi Đoàn hoàn thành nhiệm vụ đóng góp ý kiến cho công cuộc phát triển Tây Nguyên, ông mới được quay trở về Quy Nhơn để tìm lại gia đình. Niềm hạnh phúc như dâng lên tột cùng khi ông gặp được mẹ: “Hai mẹ con suốt từ năm 1954 đến năm 1975 mới được gặp nhau, ôm nhau khóc ngay trước chợ Quy Nhơn. Mẹ đã già và gầy đi nhiều. Tôi sung sướng quá không thể nói nên lời. Còn mẹ có nói rằng: Mẹ ở lại chờ con đấy!”. Giữa khung cảnh yên bình, mong ước thống nhất đất nước, sum họp gia đình đã thành hiện thực, Trần Đình Bửu bỗng thấy mình như được trở lại thời thơ ấu, để được òa khóc, được vỗ về, được cảm thấy an nhiên trong vòng tay mẹ.

Quy luật sinh tử đã mang mẹ ông đi mãi xa (bà mất năm 1994). Tuổi trẻ của ông cũng ở lại với những năm tháng hào hùng, sôi nổi nhưng ký ức về mẹ trong tâm trí của GS.TS Trần Đình Bửu thì vẫn còn sống mãi. Ông tâm sự: “Nhân cách của mẹ đã ăn sâu trong tâm hồn, trong cuộc sống của tôi một cách tự nhiên thông qua những hành động. Chỉ tiếc rằng khi bà mất thì tôi đang làm chuyên gia giáo dục tại Angiêri, không thể về nước để gặp mẹ lần cuối, chỉ tiếc rằng khi tôi đã làm được, đã có thể nuôi được mẹ thì mẹ đã không còn”.

Tôi chợt nhớ tới những vần thơ trữ tình đằm thắm của Nguyễn Duy: “Ta đi trọn kiếp con người/ Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”, và cũng chợt nhận ra rằng dù đã ngâm nga nhiều lần, song chỉ đến khi trò chuyện với GS.TS Trần Đình Bửu, nghe ông chia sẻ những kỷ niệm về người mẹ của mình, tôi mới thực sự cảm nhận sâu sắc nỗi niềm da diết trong ông khi hồi tưởng về tình mẫu tử thiêng liêng ấy. Chắc hẳn người mẹ ấy sẽ luôn hãnh diện về đứa con bà thương yêu đã có nhiều đóng góp cho ngành Xây dựng Cầu đường của Việt Nam. 

 

 Đỗ Minh Khôi

Trung tâm Di sản các nhà Khoa học Việt Nam