Ngay từ trong kết luận nghiên cứu của Đề tài luận án Phó Tiến sĩ được nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Nhân bảo vệ thành công năm 1960, ông đã đề cập đến lợi ích của xương đồng loại: “…Phương pháp điều trị cơ bản nhất đối với Kết xương kim loại-Khớp giả-Mất đoạn xương chầy là phẫu thuật ghép xương tự thân. Xương đồng loại bảo quản là phương tiện nhằm bổ sung thêm nguyên liệu tạo hình và kích thích liền xương”.
Năm 1962, nhu cầu tạo hình xương ngày càng lớn mà miếng ghép xương tự thân không thoả mãn được. Trong khi đó, phương tiện bảo quản xương phục vụ điều trị rất thô sơ, chỉ có một tủ lạnh đựng thực phẩm của Tổng cục Hậu cần. Vì vậy PTS Nguyễn Văn Nhân đã mạnh dạn đề xuất với Viện Quân y 108 ý tưởng thành lập Ngân hàng xương. Được sự ủng hộ, đồng ý và giúp đỡ của Viện và Tổng cục Hậu cần, Ngân hàng xương đầu tiên tại Việt Nam – nơi thu gom và bảo quản xương lấy từ tử thi được thành lập. Mặc dù chỉ tồn tại trong sáu năm (1962-1968) nhưng Ngân hàng xương do PTS Nguyễn Văn Nhân sáng lập đã đem lại niềm vui cho biết bao bệnh nhân.
Khi nói đến tính hiệu quả, công dụng của Ngân hàng xương, GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân liệt kê rất nhiều bệnh nhân được ghép xương thành công như: Nguyễn Bảo, Lê Thị Đạo, Nguyễn Công Lâm, Đặng Ngọc Lý, Kim Văn Phúc…Trong đó đặc biệt là bệnh nhân Lê Hoành Tân được Giáo sư Nhân điều trị và theo dõi lâu nhất: từ 1962 đến 2006.
Thông qua hồ sơ bệnh án, phim X-quang…của bệnh nhân Lê Hoành Tân (sinh năm 1942) trong khối tư liệu đồ sộ của Giáo sư Nhân (hiện đang lưu giữ tại Trung tâm) cũng có thể hiểu được quá trình theo dõi, điều trị đối với bệnh nhân này. Nhưng để hiểu sâu hơn, chúng tôi đã liên hệ trực tiếp chính ông Lê Hoành Tân, nay đã 71 tuổi. Bệnh nhân Lê Hoành Tân đã kể về cái duyên ông gặp thầy Nhân: Tôi quê ở thôn Đồng Bào, xã Thiệu Minh, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Năm 1964, tôi đang học Trung học phổ thông, trong giờ tập nhảy của môn thể dục, không may bị ngã khụy xuống đất. Tôi được gia đình đưa đi điều trị ở các tuyến bệnh viện huyện Thiệu Hóa, bệnh viện tỉnh Thanh Hóa, được chẩn đoán bị hỏng xương khớp háng. Do quen biết một số bạn ở Hà Nội, tôi ra Bệnh viện Viêt – Đức, Bệnh viện Xanh Pôn, sau đó lại quay về Bệnh viện Việt – Đức lần 2 để điều trị nhưng kết quả chưa được khả quan. Qua sự giới thiệu của người thân, tôi tìm tới PTS Nhân, BS Hạp ở Viện 108 để mong được điều trị khỏi bệnh.
Qua quá trình kiểm tra, PTS, Bác sĩ Nguyễn Văn Nhân chẩn đoán bệnh nhân bị gãy bệnh lý đầu xương đùi phải, phá hủy chòm và cổ xương đùi phải do u tế bào khổng lồ. Ngày 5-2-1964, bệnh nhân Lê Hoành Tân được PTS Nguyễn Văn Nhân cùng đồng nghiệp mổ ghép xương đồng loại: Mổ cắt bỏ 1/3 đầu trên xương đùi phải thay thế bằng đoạn xương ghép đồng loại, kết xương đinh nội tủy và đai thép.
Một số ảnh chụp sau ghép xương trong Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân Lê Hoành Tân, năm 1964
Xương đồng loại ghép cho bệnh nhân Tân được lấy từ tử thi K, một học viên bị đột tử. “Nửa trên xương đùi phải nặng 150g, cấy trùng âm tính được ghép cho bệnh nhân Lê Hoành Tân ngày 5-2-1964” (Sổ ghi chép tử thi K2 thuộc Ngân hàng xương, 1964).
Sau khi mổ ghép xương, bệnh nhân Tân được PTS Nguyễn Văn Nhân theo dõi thường xuyên: sau mổ 3 tháng; sau 4 tháng mổ 4 tháng , 12-6-1964; 13 tháng sau mổ; sau 3 năm 1 tháng mổ, 27-3-1967; sau 4 năm 5 tháng mổ, 4-7-1968; 5 năm sau mổ (1969). Tất cả được thể hiện trong hồ sơ bệnh án gồm các ảnh chụp bệnh nhân, ảnh rửa từ phim X-quang và Phiếu xét nghiệm. Quá trình chữa trị đã đem lại những kết quả khả quan, bệnh nhân dần dần có thể đi lại được bình thường và thực hiện những dự định, ước mơ của mình – trở thành sinh viên khoa Toán, trường Đại học Vinh.
Năm 1971, PTS Nguyễn Văn Nhân chuyển đơn vị công tác, nhận nhiệm vụ mới là Phó Viện trưởng Viện Quân y 109 – Bệnh viện Chấn thương – Chỉnh hình tuyến cuối của toàn quân đóng ở Vĩnh Yên. Nhưng mối liên hệ với bệnh nhân Tân không hề bị gián đoạn. Bệnh nhân Lê Hoành Tân vẫn viết thư gửi Phó Tiến sĩ Nhân để kể về tình hình sức khoẻ của mình sau 7 năm phẫu thuật: “…Còn cháu thì lâu nay vẫn khoẻ, không có gì đột biến xảy ra trong con người cháu cả, vẫn đi lại bình thường không… Còn tình hình chỗ mổ của cháu cũ thì lâu nay không có hiện tượng gì cả. Cháu vẫn khoẻ như thường…”.
Thư của Lê Hoành Tân gửi PTS Nguyễn Văn Nhân ngày 17-4-1971
Và cả những năm sau đó, bệnh nhân vẫn được Giáo sư Nhân theo dõi, thể hiện thông qua các tài liệu ông còn lưu là bệnh án chụp sau 9 năm 4 tháng sau mổ và Giấy xét nghiệm X-quang sau 14 năm mổ. Đáng chú ý hơn cả là hơn 40 năm sau điều trị, bệnh nhân Lê Hoành Tân vẫn tiếp tục được chiếu chụp để theo dõi với kết quả tốt. Bệnh nhân Tân vẫn công tác, sinh hoạt bình thường.
Hiện nay, bệnh nhân Lê Hoành Tân đã nghỉ hưu sau thời gian làm Hiệu trưởng của một trường PTTH ở Thanh Hóa. Bệnh nhân Tân vẫn không bao giờ quên được hình ảnh người bác sĩ Nguyễn Văn Nhân tận tâm, tận lực đã đem lại hạnh phúc cho cuộc đời mình và gọi “ân nhân” của mình bằng những từ trìu mến “Thầy Nhân”, “Bố Nhân”.
Đối với GS Nguyễn Văn Nhân, ông quan niệm hạnh phúc lớn nhất của người thầy thuốc là được nhìn thấy bệnh nhân bình phục trở về cuộc sống sinh hoạt bình thường với người thân, có thể tham gia lao động, công tác. Năm 1992, có dịp về Thanh Hóa, GS Nguyễn Văn Nhân đã gặp lại bệnh nhân Tân trong niềm vui khôn xiết. Với ông, công tác theo dõi bệnh nhân sau mổ là hết sức quan trọng và ông đã truyền đạt lại tinh thần đó cho những học trò của mình. Như Nghiên cứu sinh Đỗ Phước Hùng từng tâm sự với Giáo sư Nhân trong thư ngày 18-5-2003: “Em đã bỏ ra hơn nửa năm để đi tìm lại bệnh nhân. Em nhớ có lần Thầy bảo học trò của Thầy ngoài đó phải đi xuống cơ sở kiểm và khám lại bệnh nhân nếu bệnh nhân ở trong vòng bán kính 100km. Em cố gắng theo lời dạy đó dù biết sẽ phải mệt nhọc.”
Nghiên cứu khối phim ảnh trong Hồ sơ bệnh án của nhiều bệnh nhân mà GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân tặng Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, chúng tôi thấy được sự dày công trong quá trình nghiên cứu và sáng tạo trong điều trị phẫu thuật của ông, để đem lại “cuộc đời mới” cho bệnh nhân. Đó cũng thể hiện tinh thần nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học, tấm lòng tận tụy vì người bệnh của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân.
Hoàng Liêm-Hoài Thu
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam