May mắn được sống như người bình thường

  Dòng dõi Tôn Thất

 PGS.TS Tôn Thất Đại không giấu giếm vẻ tự hào khi cho biết rằng mình là dòng dõi nhà vua, mang họ Tôn Thất, gốc gác ở Huế. Ông nội là Tôn Thất Cung, làm một viên quan nhỏ trong triều đình Huế nhưng sớm về ở ẩn và sống cuộc sống điền viên, thanh nhàn. Cha là Tôn Thất Bình, thường gọi là cụ Tú Bình, sớm ra Hà Nội học và lập nghiệp ngoài Bắc, một trong 8 người thành lập nên trường Tiểu học Thăng Long và cũng đã có thời gian ngắn làm Hiệu trưởng của ngôi trường này. Cụ Tú Bình từng dạy học cùng và là bạn của những trí thức lớn như: Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Vũ Đình Hòe,… Mẹ là bà Phạm Thị Giá, con gái của cụ Phạm Quỳnh – Thượng thư trong triều đình Huế, Chủ bút Tạp chí Nam Phong danh tiếng trong những năm 20 và đầu những năm 30 của thế kỷ trước. In đậm ký ức tuổi thơ ông là những lần được về Huế chơi cùng ông nội trong căn nhà ở đường Hồ Xuân Hương và sống những ngày hè vui vẻ cùng ông ngoại trong biệt thự Hoa Đường bên cạnh dòng sông An Cựu.

                                                                                     

Tôn Thất Đại (thứ 3) cùng mẹ – Bà Phạm Thị Giá (ngoài cùng bên trái) và các chị em khác.

 Cha mẹ của PGS.TS Tôn Thất Đại đều là những người xuất thân danh giá, nhưng thời thế thay đổi khiến thân phận con người cũng đổi thay. Chính sự danh giá ấy cũng đã theo ông và làm khó ông nhiều phen, nhưng bù lại ông tự hào và cho rằng mình có được chút “nghệ sĩ” và chút “khoa học” âu cũng là được truyền lại từ cha mẹ của mình. Ông là con thứ 4 trong một gia đình có 7 chị em. Sự kiện năm 1945 đã gây nhiều biến động đối với bản thân, gia đình thì tang tóc (cha và ông ngoại Phạm Quỳnh không còn nữa). Gia đình từ đó sống một cuộc sống không còn đầy đủ như trước, mẹ của ông một mình bươn trải để nuôi các con ăn học đến nơi đến chốn. Khi sống ở Hà Nội, gia đình được thừa hưởng căn nhà số 16 Hàng Da của ông ngoại để lại, mẹ ông mở cửa hiệu nhỏ may quần áo, cuộc sống cũng tạm đủ. Ông còn nhớ như in khoảng thời gian 1947-1950 gia đình rời Hà Nội về sơ tán ở huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Khi ấy mẹ ông lại mua bông về quay sợi, làm thành những cuộn sợi trắng tinh mang ra chợ làng Hành Thiện để bán. Bà còn tự ủ mốc, làm những chum tương để bán lấy tiền trang trải cuộc sống.

 Có lẽ trong mắt của PGS.TS Tôn Thất Đại, mẹ ông là người vĩ đại và có ảnh hưởng nhất đối với tâm hồn và ý chí vươn lên của bản thân. Bà là người phụ nữ tuyệt vời, là con thượng thư lá ngọc cành vàng, đẹp đẽ vô cùng, đã học hết lớp Nhất của trường Tây, nói tiếng Pháp rất giỏi. Ấy vậy, mới 32 tuổi bà đã chịu cảnh không còn cha, chồng thì mất sớm, bà ở vậy, lam lũ nuôi các con ăn học nên người.

 Bố là một thầy giáo có lối sống mẫu mực, ông ngoại là một nhà văn, chủ bút một Tạp chí, bởi thế PGS.TS Tôn Thất Đại cho rằng việc sau này trở thành một thầy giáo cũng như có “máu nghệ thuật” là được thừa hưởng từ cả hai bên nội ngoại của mình. Ông rất tự hào về dòng họ hai bên nội ngoại, cho dù về đời sống vật chất gia đình không được thừa hưởng nhiều từ việc làm quan to của ông ngoại, nhưng ông cho rằng nguồn gốc xuất thân có ảnh hưởng lớn tới việc phát triển của ông sau này. Sự khó khăn về vật chất thật sự bắt đầu từ sau 1954, khi ngôi nhà số 16 Hàng Da thuộc quyền Nhà nước quản lý, gia đình ông phải thuê lại trên chính căn nhà của mình để sống (khoảng đến năm 1963-1964 thì chuyển khỏi đó).

 Hồi tưởng lại, PGS.TS Tôn Thất Đại cho rằng, nặng nề về thành phần khiến cho cuộc sống vật chất và tinh thần của gia đình ông khó hơn gấp bội do hệ luỵ này. Đó là khoảng thời gian vô cùng khó khăn không chỉ với gia đình ông. Ông cho biết vào thời điểm đó, việc Tốt nghiệp của sinh viên khóa I trường Đại học Bách khoa được xem xét hết sức chặt chẽ. Nhiều sinh viên không được tốt nghiệp là do kết quả thực tập không đạt yêu cầu, không có được nhận xét tốt của ba cơ quan: trường học, đơn vị thực tập và sự đồng ý tiếp nhận của Bộ chủ quản. Trong số đó không ít sinh viên không được tốt nghiệp còn vì những lý do liên quan đến thành phần. Riêng ông, một phần do may mắn hơn và cũng một phần nhờ nỗ lực bản thân đã vượt qua được thử thách mà tốt nghiệp Đại học. Hồi đó, ông được phân về thực tập tại Cục Thiết kế Dân dụng, Bộ Kiến trúc, nhờ chăm chỉ, thiết kế giỏi nên được nhận xét tốt và được đồng ý tiếp nhận. Nếu chỉ một trong ba đơn vị là nhà trường, đơn vị thực tập và Bộ Kiến trúc không đồng ý thì ông không được tốt nghiệp. Nhưng như thế vẫn chưa hết, đến năm 1963, ông xin vào bộ đội cũng không được chấp nhận vì lý do duy nhất là “lý lịch nặng quá”…

Những chuyện đó bây giờ nhìn nhận lại thì thật là nhỏ thôi nhưng đủ làm một con người thêm dạn dày và chín chắn.

Dấu ấn những người thầy 

 Thuở nhỏ, Tôn Thất Đại học trưởng Tiểu học Thăng Long, khi sơ tán ở Nam Định thì học trường Trung học Nguyễn Khuyến, đóng ở làng Trà Bắc, huyện Thiên Trường. Sau khi trở về Hà Nội, ông học tú tài Toán tại trường Nguyễn Trãi. Cũng tại ngôi trường này, bắt đầu hình thành trong ông những niềm đam mê để gắn với cuộc sống và sự nghiệp sau này. Ông xúc động hồi tưởng về ngôi trường với thầy Loan dạy tiếng Pháp, lúc nào cũng mặc comple, cà vạt lịch sự, rất thanh nhã; thầy Xuân dạy tiếng Anh, thầy Trung Quân dạy nhạc. Nhưng ấn tượng hơn cả là thầy Thịnh Đell và thầy Bốn là những thầy đầu tiên dạy ông vẽ bằng bút chì.

                                                                                                               

PGS.TS Tôn Thất Đại

 Cũng chính vì năng khiếu vẽ được khơi gợi từ những ngày ấy, Tôn Thất Đại đã cùng với vài người bạn khác của mình tìm đến lớp dạy vẽ tư của thầy giáo Lương Xuân Nhị và Nguyễn Tiến Chung – những người đã tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông không gặp bất cứ khó khăn gì khi tham gia học vẽ cả, ông kể : “Tôi thích lắm. Cả bọn trẻ con đi học vẽ, rồi thầy cho những bảng to, dạy đo, dạy vẽ, đầu tiên là vẽ tượng, rồi đến vẽ người thật. Học cẩn thận lắm.Tôi cho rằng cụ Lương Xuân Nhị dạy hoàn toàn bài bản như là của Tây. Tôi may mắn được học ở đấy nên tôi mới biết vẽ một cách nghiêm chỉnh như vậy. Tất cả những người kiến trúc sư hiện nay không mấy người được học như tôi cả, người ta học hoàn toàn trong Trường Kiến trúc thôi”.

 Đối với PGS.TS Tôn Thất Đại, thầy giáo Lương Xuân Nhị chính là người khai mở niềm đam mê vẽ, hình ảnh về thầy Nhị là một người thầy rất mô phạm, rất nghiêm khắc chứ không hề tài tử. Kỷ niệm với thầy là những buổi được thầy cho đi ra chợ đứng cả ngày để vẽ, hoặc cho ra ngoại thành vẽ phong cảnh, cho đến đình chùa dựng tranh, đến vườn hoa Tết vẽ ký họa. Những nét vẽ đầu tiên được sử dụng bằng những thỏi than, sau đó mới đến bút chì, rồi bút màu, màu bột, sơn dầu, thuốc nước, khắc gỗ,… Sau mỗi buổi vẽ thì thầy giáo đều chữa một cách rất kỹ càng lên bản vẽ để có thể tiếp thu và nhớ kỹ. Không những được học vẽ, ông còn học được ở người thầy của mình một tư cách của người nghệ sĩ lớn, đó là phong cách làm việc nghiêm chỉnh, làm đến đâu dứt điểm đến đó, tỉ mỉ và cầu thị.

 Trong những năm học Đại học Bách khoa, những người thầy và các thế hệ đàn anh cũng đã để lại cho ông không những kiến thức về Kiến trúc mà còn là phong cách làm việc, nhân cách sống. Vào năm 1956, trường Đại học Bách khoa mở khóa đầu tiên, chưa có Khoa Kiến trúc mà chỉ có lớp học về kiến trúc độ khoảng hơn hai chục người, nằm trong Khoa Xây dựng. Sinh viên lúc đó thi vào Khoa Xây dựng, sau đó những người có năng khiếu vẽ mới thi chuyển sang lớp Kiến trúc này. Chủ nhiệm lớp đó là GS Ngô Huy Quỳnh, một người đã từng tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương dưới thời Pháp và từng được cử sang học Đại học ở Liên Xô từ năm 1951 đến 1956. Không chỉ đối với PGS.TS Tôn Thất Đại mà cả đối với nhiều thế hệ thầy trò ngành Kiến trúc, GS Ngô Huy Quỳnh luôn là một nhà giáo tài hoa và mẫu mực. PGS.TS Tôn Thất Đại chia sẻ: “GS Ngô Huy Quỳnh dạy rất nhiều môn, dạy vẽ kiến trúc, dạy lịch sử kiến trúc,…Thầy là người sát sao nhất, tất cả mọi việc học tập đều do thầy quán xuyến. Thầy đã đề nghị nhà trường trang bị cho chúng tôi đầy đủ giá vẽ, bảng vẽ, hộp màu,…”. Cảm giác “sướng” mỗi buổi lục tục đồ đạc đi vẽ điền dã cùng thầy Quỳnh và bạn bè khắp các đình chùa, vẽ phong cảnh ở khắp nội ngoại thành Hà Nội. Còn nói về tính cách của thầy mình, ông cho rằng: “Thầy là tấm gương cho chúng tôi, xứng đáng là một người thầy lớn. Ông là một người rất thoải mái, tính tình phóng khoáng đúng như một nghệ sĩ, lúc nào cũng vui vẻ và nói chuyện hài hước”.

 Ngoài ra, PGS.TS Tôn Thất Đại cũng được học và được tiếp thu những bài học và kinh nghiệm của những Kiến trúc sư kỳ cựu như Hoàng Như Tiếp, Nguyễn Cao Luyện. Hai người thầy này lại vốn là bạn thân của cụ Tôn Thất Bình – cha của ông, họ đã từng có thời gian dạy học ở trường Thăng Long, nên sau này ông cũng nhận được sự ưu ái và quan tâm, chỉ bảo từ họ. Cụ Nguyễn Cao Luyện dạy về lịch sử kiến trúc, là một người hết sức cẩn thận, còn cụ Hoàng Như Tiếp thì dạy về quy hoạch đô thị. Họ đều là những thầy giáo giỏi và được đào tạo bài bản dưới thời Pháp, những điều hai thầy truyền dạy cho ông chính là những kinh nghiệm sau này để ông truyền lại cho các thế hệ học trò của mình.

 Nhưng có lẽ đáng nhớ nhất là dấu ấn với GS Nguyễn Sanh Dạn. Nhắc lại kỷ niệm về GS Dạn, PGS.Tôn Thất Đại có cảm giác như hồi còn sinh viên. Ông cho biết, hồi đó GS Nguyễn Sanh Dạn là Phó Chủ nhiệm Khoa Xây dựng, một người được các sinh viên biết đến với tính cách cực kỳ nghiêm khắc. Thầy Dạn mang phong cách của một thầy giáo trong quân đội, lúc nào cũng nghiêm nghị. Họ cho rằng thầy rất “hắc xì dầu”, vì thế sinh viên tất cả các Khoa ở trường Bách khoa đều rất sợ thầy. Ngày đó, sinh viên Tôn Thất Đại đã làm một việc rất nghịch ngợm mà bây giờ ông cho rằng hơi quá, đó là vẽ ký họa về thầy. Ông có sở thích vẽ ký họa và vẽ rất nhiều, vẽ những người bạn của mình, thậm chí ông còn nổi tiếng trong giới sinh viên và được lan truyền với biệt danh người vẽ ký họa bằng compa, đã từng vẽ GS Phạm Ngọc Đăng – bạn cùng lớp với khuôn mặt cực “cong” vì gầy. Ông vẽ thầy Dạn của mình chỉ bằng những nét đơn giản nhưng cực kỳ giống, đó là “vầng trán cao, lỗ mũi to và nhân trung rất dài”. Ông chia sẻ rằng nó dường như không phải bức ký họa mà vô tình như mang tính châm biếm nhiều hơn, thế rồi bức ký họa ấy nhanh chóng lan truyền trong sinh viên Bách khoa, họ vẽ thầy Dạn ở khắp nơi, trên mặt bàn của các giảng đường, tường nhà ăn,… Ông nghịch đến nỗi thẻ sinh viên thì dán ảnh mình nhưng lại vẽ hình thầy Dạn lên đó. Một lần thi môn của thầy Dạn, Tôn Thất Đại lên rút đề thi và thầy hỏi thẻ sinh viên, ông đưa thẻ cho thầy và vô tư về chỗ làm bài. Trong lúc làm bài thì thấy thầy mở các thẻ sinh viên ra và ngắm nghía, nhưng thầy không nói gì và ông cũng không nhận ra điều gì cả. Mãi khi về khu tập thể của Bách khoa, ông mới toát mồ hôi và nói với bạn bè rằng thầy Dạn đã xem được cái thẻ sinh viên đó. Ông tưởng lần này mình sẽ bị thầy Dạn cho một trận tơi bời và đánh trượt môn thi, nhưng không, vài ngày sau đó thầy Dạn có đến khu tập thể nội trú của sinh viên và nói với những người bạn của ông rằng: “cậu Đại nó học cũng được đấy nhưng mà hơi ba gai”. Lần đó ông vẫn được thầy Dạn cho 5 điểm (thang điểm 5/5) vì bài làm đúng hết. Ông mừng vì thoát được lần nghịch ngợm tai hại. Từ đấy về sau, PGS.TS Tôn Thất Đại rất quý thầy và ơn thầy vì thầy là người rất giỏi và giàu tình thương, hai vợ chồng ông sau khi ra trường thường xuyên đến thăm và trò chuyện với thầy giáo của mình.

 Và còn rất nhiều những người thầy khác không ở trong trường lớp nhưng ông cho rằng mình đã rất may mắn vì được học những thế hệ Kiến trúc sư đầu tiên ở thế kỷ 20. Cùng với người bạn đời cũng là đồng môn đồng khoá và đồng nghiệp của ông, dấu ấn về họ và sự tri ân đối với họ đã làm cho kiến trúc với ông trở thành tình yêu vượt lên trên khái niệm nghề nghiệp trong cuộc đời của mình.

Nguyễn Thanh Hóa