Thông qua những tư liệu của cá nhân GS Tôn Thất Tùng mà chúng tôi tập hợp được, có thể mạnh dạn đưa ra nhận định như trên. Những tư liệu này được GS Tôn Thất Tùng viết trong những thời điểm khác nhau nhưng tựu chung lại là những suy nghĩ của ông về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người mà ông đã có nhiều năm được tiếp xúc, làm việc. Một tài liệu được GS Tôn Thất Tùng viết ngay sau khi nghe tin Chủ tịch Hồ Chí Minh mất. Tài liệu thứ hai ông viết vào khoảng năm 1977-1978, sau chuyến thăm Paris, Pháp. Cả hai tài liệu này hiện đang được lưu giữ và bảo quản tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bệnh viện Việt – Đức sau ngày Hà Nội giải phóng (10-10-1954)
GS.Tôn Thất Tùng (người mặc complet trắng bên trái)
Giáo sư Tôn Thất Tùng có may mắn được gặp Bác Hồ lần đầu tiên trong những ngày sôi động của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội. Trong những ngày súng nổ ấy, ông cùng với các anh em khác tham gia cướp chính quyền của Pháp ở Bệnh viện Phủ Doãn, tham gia cứu chữa cho các đồng bào, đồng chí ở Hà Nội, Hà Đông,… Một lần, trong những ngày đầu tháng 9-1945 ông được gọi gấp đến Bắc Bộ Phủ để chữa bệnh cho một đồng chí mà ông chưa biết là ai, khi gặp ông mới biết đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này ông viết lại: “Bước vào phòng, tôi gặp một ông già gầy xanh, nhưng có đôi mắt rất sáng. Đó là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Và từ cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, tâm hồn tôi đã chuyển biến theo cách mạng, dưới ánh sáng của đôi mắt Bác Hồ”[1].
Từ lần gặp Bác Hồ đầu tiên ấy, Tôn Thất Tùng như được ánh sáng từ đôi mắt Bác chiếu rọi, đưa ông đến với cách mạng và tận tụy với dân với nước đến trọn đời. Ông luôn luôn nhớ như in những lời Bác dạy, là làm việc ở trong hay ngoài nước cũng như nhau, đều phải làm những việc có ích cho dân, cho nước. Động lực làm theo lời Bác vẫn được ông lý giải cho mọi thành công của mình trên con đường làm khoa học. Từ năm 1945, ông có nhiều dịp được làm việc với Bác Hồ, được Bác cảm hóa, và chính ảnh hưởng của Bác trở thành một động lực đặc biệt đối với ông. Vì thế khi nghe tin Bác ra đi, ông hết sức sửng sốt, đau buồn: “Từ hôm qua tôi biết Bác ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi được: nhưng buổi sáng, anh em vẫn đến lấy thuốc trợ tim, cho nên tôi vẫn còn hy vọng, và tuy bị mệt sau cúm, tôi vẫn cố mổ xẻ như thường lệ. Tối về nhà, được tin là Bác đã qua đời sáng hôm ấy. Được tin, tôi thấy mình không ngồi vững được phải đi nằm ngay. Ngoài trời mưa tầm tã buồn bã. Nước mắt cứ tràn trụa ra không cầm được. Làm sao Bác có thể chết được! Nhớ Bác quá”[2].
Với một tình cảm đặc biệt dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, những kỷ niệm ngày đầu tiên gặp Bác ùa về trong tâm trí của GS Tôn Thất Tùng. Ông nhớ lại: “Tôi không bao giờ nghe Bác nói chính trị hay lý luận cả, mà chỉ nghe những lời nhắc nhở của một người cha đối với con: “Chú phải sống như người ta, làm như người ta, sau mới cảm hóa người ta được””. GS Tôn Thất Tùng còn nhớ một lần Bác Hồ đến thăm gia đình ông đầu năm 1946: “Bác gặp mẹ tôi và hỏi chuyện. Lúc ấy có một lời kêu gọi của Bác sáng ăn cơm, chiều ăn cháo để lấy gạo giúp những người thiếu ăn. Mẹ tôi than phiền rằng ăn cháo bữa tối xót ruột lắm. Bác gọi tôi đến: “Đối với người già ăn không bao nhiêu, không nên máy móc làm một kỷ luật khắc khổ””.
Giáo sư Tôn Thất Tùng vẫn ghi nhớ về sự kiện trước khi diễn ra Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua diễn ra vào năm 1967. Bác đã gọi ông đến và bảo: “Tôi cho phép chú viết thơ ra ngoài, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của mọi nước, mọi người. Tuyệt đối không được tiết lộ bí mật quốc gia”. Trong một lần sắp đi nước ngoài công tác, Bác Hồ dặn ông: “Cái gì lợi cho nước thì làm, cái gì không lợi thì không được làm”. Ông luôn khắc ghi lời Bác dặn và làm theo những lời căn dặn ngắn gọn nhưng đầy sự tin tưởng đó, mang hình ảnh của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế một cách thân thiện, luôn thể hiện rằng nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình và mong muốn được hợp tác với các nước. Sau này, đến cuối những năm 1970, trong những chuyến đi công tác ở Pháp, Mỹ,… ông luôn tâm niệm rằng những thành công của mình là do có một động lực thiêng liêng “cái gì có lợi cho nước thì làm”. Bác Hồ và những lời dạy của Người trở thành một động lực thúc đẩy cho những nhiệm vụ mà ông hướng tới, và luôn cố gắng không mệt mỏi để hoàn thành.
Trong một bài cảm nghĩ viết vào đầu những năm 1970, GS Tôn Thất Tùng thổ lộ: “Bác đối với tôi là người cha, người thầy của tôi, người đã giải phóng tư tưởng, giải phóng khoa học cho tôi”[3].
Trong chuyến đi Pháp vào khoảng năm 1977, sau một buổi gặp gỡ và trao đổi với các trí thức Pháp, những Việt kiều đã không khỏi ngạc nhiên hỏi tại sao ông lại có tác phong đĩnh đạc khi tiếp xúc với các nhà khoa học danh tiếng của Pháp, GS Tôn Thất Tùng lý giải đó là vì ông đã trải qua hai cuộc kháng chiến, nhờ Bác Hồ, nhờ Đảng mà ông thấy được khả năng của mình, Bác đã giải phóng tư tưởng cho ông, nhờ đó mà tài năng của ông mới được phát huy cao độ. Tại một buổi nói chuyện với Hội Liên hiệp trí thức Việt kiều, có nhiều người hỏi bí quyết thành công trong công tác nghiên cứu của GS Tôn Thất Tùng. Ông trả lời: “Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, chúng tôi đã đứng về phía nhân dân và nhờ công ơn giáo dục của Bác, của Đảng, con người tôi và trí tuệ chúng tôi đã được giải phóng, đã mất tính tự ti dân tộc và tài năng được phát triển”[4]. Cũng thời gian ở Pháp này, GS Tôn Thất Tùng quan sát thấy một số sinh viên khi muốn tổ chức một việc gì thì họ thường lấy tên Hồ Chí Minh và Che Guevara làm một tín hiệu hô lên để tập hợp. Ông được cắt nghĩa rằng, cách tập hợp của họ khởi đầu là hành động tập trung lại chạy quanh vòng tròn và hô to: “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh! Che, Che, Che Guevara!” và điều đó nói lên tinh thần cách mạng trong hành động của họ.
Theo Giáo sư Tôn Thất Tùng, mặc dầu Bác Hồ đã về với Tiên tổ, nhưng sự nghiệp của Bác vẫn chói ngời và càng thêm rạng rỡ. GS Tôn Thất Tùng cho rằng: “Bác đã đào tạo được một tập thể những đồng chí cách mạng, những người công tác có đủ tài năng kế tục sự nghiệp vĩ đại của Bác”. Thấm nhuần tư tưởng trong Di chúc của Người: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, Giáo sư nhận thấy phải có nhiệm vụ góp phần rèn luyện một thế hệ tương lai và tự nêu cao trách nhiệm của bản thân: “Dưới ánh sáng tư tưởng của Bác, là một người làm công tác khoa học, tôi càng thấy rõ thêm trách nhiệm của mình và càng thêm tin tưởng vào tiền đồ sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật của nước nhà… Dân tộc ta không phải chỉ biết đánh Mỹ và thắng Mỹ mà dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện lời Di chúc của Bác, nhất định chúng ta cũng sẽ chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu”[5].
Khi nhắc về Bác Hồ, một cảm nhận sâu sắc, đầy lạc quan tươi sáng luôn thường trực trong tâm trí GS Tôn Thất Tùng: “Tôi có cảm tưởng Bác như một trận mưa mùa xuân đã rải rác khắp đất nước ta và nhờ trận mưa đó mà cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa lá xanh tươi. Đất nước ta có Bác, có Đảng mãi mãi sẽ là một vườn xuân đầy hương sắc. Cùng với lớp người đi trước, một thế hệ mới đang trưởng thành và tràn đầy sinh lực, đang tiếp tục một cách vẻ vang sự nghiệp vô cùng vĩ đại của Bác”. Và GS Tôn Thất Tùng nguyện: “làm hết sức mình để góp phần xứng đáng vào việc phát triển nền Y học xã hội chủ nghĩa của nước nhà, để đền đáp công ơn trời biển của Bác đã từng quan tâm chăm sóc và giáo dục tôi”.
Quả thực, GS Tôn Thất Tùng đã may mắn có được những thời gian gần Bác, được Bác giác ngộ, khai mở tư tưởng đồng thời tin tưởng giao cho trọng trách lớn lao là xây dựng và phát triển nền Y tế Việt Nam. Ông là một trong những trí thức, cùng với Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Di, Tạ Quang Bửu,… đã không phụ sự tin tưởng của Bác, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước sau này. Ông luôn biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh – một vị lãnh tụ, một người cha và tâm niệm rằng những thành công của ông trong khoa học đều có một động lực lớn mang tên Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thanh Hóa
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam