Một người thầy, một bác sĩ tài năng, đức độ

1. Thời trẻ và ngã rẽ cuộc đời

Vũ Công Hòe sinh ngày 13-3-1911 trong một gia đình nghèo gồm 8 anh chị em tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định – một vùng đất có truyền thống hiếu học, quê hương của nhà thơ Trần Tế Xương (Tú Xương). Năm 1924, khi mới 13 tuổi Vũ Công Hòe đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, được người anh cả Vũ Công Thành nuôi dưỡng, cho ăn học. Cũng từ đây, Vũ Công Hòe đã ý thức và bắt đầu một cuộc sống tự lập. Ông từng tham gia bãi khóa ở Nam Định do ông Trường Chinh lãnh đạo để hưởng ứng phong trào để tang Phan Châu Trinh. Vì vụ này, Vũ Công Hòe bị đuổi học, và có lẽ đây chính là ngã rẽ quan trọng đưa ông đến với một chân trời mới.

Ông lên Hà Nội học tiếp, nương nhờ một người họ hàng cùng quê, thường gọi là ông Huyện (cha của nhà thơ nổi tiếng Vũ Hoàng Chương), sống ở phố Khâm Thiên. Được cưu mang, Vũ Công Hòe thi vào học tại trường bảo hộ Albert Sarraut và thi đậu Tú tài phần 1, Tú tài phần 2 vào các năm 1930-1931. Là một người có tư chất thông minh, hiếu học, thích nghề thầy thuốc từ khi còn nhỏ nên sau khi đỗ Tú tài, Vũ Công Hòe đã thi vào trường Y khoa Đông Dương và đứng tốp đầu trong kỳ thi, được học bổng và ở nội trú tại số 17 Lê Thánh Tôn, Hà Nội.

Cuộc đời từ đây bước sang một trang mới, Vũ Công Hòe là sinh viên trường Y khoa, nhưng ông còn phải lo cho các em của mình nên tiền học bổng không đủ để trang trải cho các khoản chi tiêu. Chính vì thế, đều đặn mỗi buổi tối ông lại cuốc bộ từ trường Y lên phố Hàng Bạc để làm gia sư cho con trai của ông giáo Thiện. Với bản chất hiền lành, trung thực lại tỏ ra là một trí thức học rộng, biết nhiều nên Vũ Công Hòe được gia đình rất quý trọng, chu cấp cho ăn mặc đầy đủ. Kèm cặp cho con trai của ông giáo Thiện đỗ Tú tài nên Vũ Công Hòe được coi như người thân trong gia đình.

Giáo sư Vũ Công Hòe cùng vợ và 6 người con tại Hà Nội, 1957

Sau khi tốt nghiệp bác sĩ nội trú (1937) của trường Y khoa, Vũ Công Hòe được gia đình ông giáo Thiện gả con gái khi ấy mới vừa tròn đôi mươi. Đó là năm 1938. Hai vợ chồng trẻ được gia đình bên ngoại cho căn nhà nhỏ ở số 6, phố Gia Ngư để bắt đầu một cuộc sống mới. Tốt nghiệp bác sĩ có lương nhưng Vũ Công Hòe vẫn đi làm thêm ở bệnh viện như đỡ đẻ để có thêm thu nhập nuôi người em trai Vũ Công Hậu cũng đang học đại học. Ông Vũ Công Hậu vốn cũng thi đỗ trường Y nhưng vì thời gian học lâu quá, không có tiền và mong muốn nhanh chóng đi làm nên đã chuyển sang học trường Cao đẳng Canh nông (khi ấy học 3 năm). Sau này ông Vũ Công Hậu trở thành một giáo sư đầu ngành trong ngành Nông nghiệp cũng là nhờ một phần từ sự nuôi nấng, dạy bảo từ người anh trai Vũ Công Hòe.

2. Nhà Giải phẫu bệnh, nhà Sư phạm tài năng, đức độ

Giáo sư Vũ Công Hòe là một trong 4 bác sĩ Việt Nam (cùng với GS Đặng Văn Chung, Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm) được phong hàm Giáo sư theo hệ thống học hàm của Pháp năm 1952. Năm 1955, ông cũng là một trong 9 người được công nhận là Giáo sư của nền Giáo dục Việt Nam sau khi hòa bình lập lại. Ông là người đầu tiên làm giải phẫu ở Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Khoa Giải phẫu bệnh, trường Đại học Y Hà Nội; nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Bạch Mai; Chủ tịch Hội Giải phẫu bệnh – Y pháp Việt Nam.

Là người đi đầu và xây dựng ngành Giải phẫu ở Việt Nam nhưng ít ai biết đến lý do GS Vũ Công Hòe đến với ngành này. Giải phẫu là một ngành ít người muốn học vì nó liên quan đến mổ xác, đối tượng nghiên cứu là tử thi, nhưng tại sao Vũ Công Hòe lại dấn thân và đam mê như vậy? Đó cũng là một sự thiệt thòi, vì thính giác của ông vốn kém từ bẩm sinh nên khó lòng có thể theo các ngành khác như Nội khoa để nghe tim, nghe phổi,… chẩn đoán bệnh. Do vậy ông mới phải theo ngành Giải phẫu, nhưng bù lại, ông có đôi mắt cực kỳ tinh anh, có thể ngồi cả ngày bên kính hiển vi, bên những xác chết để phẫu tích, nghiên cứu về các loại bệnh tật. Theo nghề rồi ông đam mê, gắn bó với nó suốt cuộc đời.

Bằng tốt nghiệp bác sĩ của Vũ Công Hòe năm 1938

Sinh thời, GS Vũ Công Hòe là người đề ra ba mắt xích liên hoàn trong chăm sóc sức khỏe, phục vụ bệnh nhân: phát hiện và chẩn đoán bệnh – điều trị – phòng bệnh. Ông thường nhắc nhở các học trò rằng: Giải phẫu bệnh là khoa học về tổn thương, về hình thái, song qua phát hiện và chẩn đoán bệnh chính xác, phải đối chiếu với lâm sàng để từ hình thái học, tìm hiểu cơ chế tổn thương, rút ra những bài học thiết thực cho điều trị, phòng bệnh. Ông luôn nói với các học trò rằng phải lấy công việc, thử thách thực tế để rèn bản lĩnh chuyên môn, rèn đạo đức bằng sự say mê nghề nghiệp. Ông từng nói về sự khắc nghiệt trong nghề mổ xác: “Đó là nghệ thuật làm cho người chết nói lên tiếng nói cuối cùng phục vụ người sống… Đằng sau cánh cửa tàn nhẫn khép lại cuộc đời của một con người vẫn có thể hé mở một chân trời mới của khoa học… Đằng sau mỗi tiêu bản, phiến đồ là cả một gánh nặng về sinh mạng của con người”[1]. Đó là một cách ông vẫn động viên các học trò của mình gắn bó với nghề đồng thời nâng cao trách nhiệm đối với nghề.

 Giáo sư Vũ Công Hòe là một trong những người đầu tiên soạn và giảng bài ở bậc đại học bằng tiếng Việt từ năm 1945. Giáo sư đã cố gắng Việt hóa cả những thuật ngữ chuyên môn phức tạp, sau năm 1954, ông đã tham gia biên soạn Từ điển Y Dược Pháp – Việt phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập của nhiều đối tượng y, bác sĩ và sinh viên.

Không chỉ là một nhà khoa học tài năng, Giáo sư Vũ Công Hòe là một bác sĩ rất giàu tình thương yêu. Năm 1937, khi vừa tốt nghiệp bác sĩ Y khoa, ông đã làm một bài thơ bằng tiếng Pháp có nhan đề “Trái tim Thầy thuốc” trong đó ba câu cuối bài thơ có viết: “Tôi đã học hàn gắn nỗi đau, học yêu người bệnh/ Cùng khóc với sự hẩm hưu của họ và cộng hưởng/ Với những nỗi khổ đau reo rắc khắp trần gian”. Mái trường Y khoa đã rèn luyện chàng trai Vũ Công Hòe không những “Y năng” mà còn cả “Y đức” , ông luôn cảm thấy buồn đau trước nỗi đau của bệnh nhân và thấy vui, được động viên khi đã giúp ích cho đời.

Là một bác sĩ, Giáo sư Vũ Công Hòe luôn hướng tới việc phục vụ cho người bệnh, cho xã hội, không màng tới lợi ích cho bản thân. PGS.TS Vũ Công Tuấn, con trai của cố GS Vũ Công Hòe, người được theo đến nơi làm việc của cha từ khi còn nhỏ, chia sẻ: “Cụ đã để lại cho chúng tôi một tấm gương về lẽ sống đúng đắn của một con người, tức là luôn đặt cho mình câu hỏi: làm được gì cho xã hội? Nhưng ngược lại không đặt câu hỏi xã hội đãi ngộ mình cái gì? Chính vì lẽ sống đó mà cụ tôi lúc nào cũng thanh thản, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng lạc quan, không bao giờ hậm hực về hiện tại của mình, và cũng không đặt vấn đề mình được cái gì từ cuộc sống”[2].

Với tư cách là một người làm khoa học, GS Vũ Công Hòe là người trung thực. Đối với học trò, ông là người rất nghiêm khắc nhưng cũng hết mực yêu thương, truyền đạt vô tư và nhiệt tình những kiến thức của mình cho các thế hệ sau. Trong lối sống, ông là một người rất giản dị, không cầu kỳ và rất khiêm tốn. “Cụ là người không để ý đến hưởng thụ ăn uống, quần áo hay các phương tiện khác. Ngày xưa khó khăn quá nên đến lúc trở thành Giáo sư của Pháp hay Giáo sư của Việt Nam, tiêu chuẩn không phải không có nhưng cụ không bao giờ nghĩ đến hưởng thụ mà rất khiêm tốn và rất tiết kiệm. Tôi còn nhớ khi tuýp đánh răng đã hết thì bao giờ cụ cũng cắt dọc nó ra để cho bàn chải vào dùng phần phía trong không bóp ra được nữa. Tôi cho rằng đó là điều tốt và bây giờ tôi cũng bắt chước cha tôi” – PGS.TS Vũ Công Tuấn nhớ lại.

Về mặt sư phạm, như Giáo sư tự nhận xét: “Không chủ quan nhưng có lẽ không đến nỗi quá thua kém chuyên khoa nước ngoài về mặt đào tạo cũng như phục vụ bệnh nhân. Nghiên cứu hoàn cảnh thực tế chỉ cho phép nghiên cứu cơ bản là chủ yếu. Ứng dụng các phương pháp y học phân tử tương đối hạn chế (miễn dịch tổ chức, sinh hóa tế bào,…). Tuy có hạn chế về tuổi tác nhưng vẫn theo dõi và ứng dụng vào hoàn cảnh Việt Nam những vấn đề y học hiện đại, chủ yếu về mặt phát triển khách quan của khoa học. Có những vấn đề chưa ứng dụng được, nhưng vẫn cần phải hiểu biết để có hướng phấn đấu xây dựng và chuẩn bị khả năng dù chỉ về mặt lý thuyết, để khỏi bỡ ngỡ khi tiếp xúc với khoa học nước ngoài”[3].

Từ rất sớm, GS Vũ Công Hòe luôn xác định rằng: Giải phẫu bệnh tuy là khoa học cơ sở nhưng vẫn có đầy đủ 4 chức năng: đào tạo (giảng dạy), nghiên cứu khoa học, phục vụ người bệnh, chỉ đạo ngành. Đương thời, ông rất quan tâm và chỉ đạo các học trò phải sát sao, chú ý mối quan hệ giữa: giảng dạy – nghiên cứu khoa học – phục vụ người bệnh. Giáo sư chính là người Việt Nam đầu tiên viết giáo trình Giải phẫu Bệnh học bằng tiếng Việt, được Nhà xuất bản Y học và Thể dục thể thao xuất bản năm 1964. Công trình lớn nhất của GS Vũ Công Hòe: “Mô hình bệnh tật, tử vong của người Việt Nam qua sinh thiết, tử thiết”, là công trình được tập hợp và nghiên cứu trong nhiều năm, từ năm 1938 cho đến trước khi ông mất (1994). Năm 2000, GS Vũ Công Hòe đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình này.

Suốt mấy chục năm công tác, từ năm 1938 đến trước khi mất (1994), GS Vũ Công Hòe vừa là một cán bộ giảng dạy, vừa là bác sĩ phục vụ trong các bệnh viện, đặc biệt ông đã xây dựng một Bộ môn Giải phẫu bệnh mà trước kia hầu như chưa có.. Trong vai trò là Chủ nhiệm Bộ môn Giải phẫu bệnh ở trường Đại học Y cũng như công tác điều trị ở Bệnh viện Bạch Mai, GS Vũ Công Hòe đã phát huy tối đa vai trò của người đứng đầu, luôn tạo không khí dân chủ, gương mẫu trong lối sống cũng như chuyên môn, khuyến khích các đồng nghiệp học trò chuyên tâm vào giảng dạy và nghiên cứu.

 Trong hơn nửa thế kỷ công tác, GS Vũ Công Hòe đã đóng góp đào tạo cho đất nước nhiều thế hệ cán bộ y bác sĩ. Ông không chỉ truyền đạt kiến thức mà chủ yếu là hướng dẫn học trò phương pháp tự học, nhằm đạt hiệu quả tối đa, làm việc đến nơi đến trốn, vừa làm vừa kiểm tra, không làm một cách chung chung, hời hợt và đặc biệt là không được giấu dốt. Cho đến những ngày cuối cùng, khi tự đánh giá về quá trình công tác của mình, GS Vũ Công Hòe viết: “Không thấy hổ thẹn được giao trách nhiệm trong hơn 50 năm làm cán bộ giảng dạy cho ngành Giáo dục cũng như ngành Y. Và có thể nói không chệch đường về mặt đạo đức cũng như chuyên môn”[4].

***

Nhớ về Giáo sư Vũ Công Hòe là nhớ về một nhà giải phẫu hàng đầu Việt Nam, một người thầy mẫu mực, một nhà khoa học giản dị. Nhưng sẽ là thiếu sót nếu không thấy được tình yêu quê hương đất nước luôn đau đáu trong ông. Để khép lại câu chuyện này, xin được trích mấy câu thơ ông đã viết trong thời gian bảo vệ luận án Thạc sĩ ở Pháp năm 1952: “Góp mặt làng Tây chán lắm rồi/ Nợ nần vướng víu gỡ ra thôi/ Bánh mỳ bỏ bụng chưa đầy chữ… Phương Đông vọng ngóng đường Nam Việt/ Khói lửa vì đâu vẫn ngập trời”.

Nguyễn Thanh Hóa

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam



[1] Theo bài phát biểu của học trò- GS Nguyễn Vượng nhân dịp thầy – GS Vũ Công Hòe 80 tuổi, 1991. Tư liệu này lưu giữ tại gia đình PGS.TS Vũ Công Tuấn

 

[2] Phỏng vấn PGS.TS Vũ Công Tuấn (con trai GS Vũ Công Hòe), Thành phố Hồ Chí Minh, 5-2013.

 

[3] Theo bản tóm tắt thành tích GS Vũ Công Hòe tự khai tháng 3-1990. Tư liệu này lưu giữ tại gia đình PGS.TS Vũ Công Tuấn.

 

[4] Theo bản tóm tắt thành tích GS Vũ Công Hòe tự khai tháng 3-1990. Tư liệu này lưu giữ tại gia đình PGS.TS Vũ Công Tuấn.