Một sự kiện không thể nào quên

Ấn tượng về nhà lãnh đạo khoa học “thần tốc”

Năm 1969, GS.TSKH, Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu từ Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna, Liên Xô trở về nước, đảm nhiệm vai trò Viện trưởng Viện Vật lý thuộc Viện Khoa học Việt Nam và tham gia Ủy viên Ủy ban  Khoa học và Kỹ thuật nhà nước, Đại biểu Quốc hội từ khóa IV đến khóa X. Từ thời điểm này, GS Nguyễn Văn Hiệu có may mắn được gặp gỡ, chào Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào giờ nghỉ giải lao trong những kỳ họp Quốc hội. Hình ảnh vị Đại tướng giản dị, cởi mở, vui vẻ với mọi người luôn in đậm trong tâm trí  GS Nguyễn Văn Hiệu cho đến mãi về sau.

Từ ngày đầu mới thành lập (1959), Uỷ ban Khoa học Nhà nước đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Các ông Trường Chinh, Nguyễn Duy Trinh, Võ Nguyên Giáp là các Uỷ viên Bộ Chính trị đã lần lượt giữ vị trí Chủ nhiệm Uỷ ban qua từng thời kỳ. Năm 1964, Uỷ ban Khoa học nhà nước tách thành Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam và Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trực tiếp phụ trách. Năm 1976, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được phân công phụ trách lĩnh vực khoa học của đất nước và thay mặt Thủ tướng quyết định các công việc liên quan, “Đây là sự chuyển giao rất tuyệt vời” – GS Nguyễn Văn Hiệu nhớ lại. Đó cũng là thời điểm GS Nguyễn Văn Hiệu bắt đầu được làm việc trực tiếp với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong vai trò Phó Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam.

       GS.VS Nguyễn Văn Hiệu mô tả Thí nghiệm quan sát ba tầng

Được làm việc trực tiếp với Đại tướng là một may mắn trong cuộc đời quản lý khoa học của GS Nguyễn Văn Hiệu. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người quyết đoán, thận trọng và quyết tâm trong công việc, ông quả là “một nhà thông thái”. Trong vai trò là một lãnh đạo khoa học, Đại tướng cũng có những quyết định táo bạo và “thần tốc” như khi ông chỉ huy quân sự. Trong những buổi trao đổi công việc tại phòng họp của Viện Khoa học Việt Nam với sự tham gia của Đại tướng và lãnh đạo Viện – trong đó có GS Trần Đại Nghĩa và GS Nguyễn Văn Hiệu – vấn đề nào quyết được Đại tướng quyết ngay, nếu vượt thẩm quyền của mình, Đại tướng trao đổi bàn thảo rồi xin ý kiến Thủ tướng Phạm Văn Đồng, thường ngay hôm sau Đại tướng chủ động gọi điện thoại trả lời lãnh đạo Viện theo ý kiến đã được Thủ tướng thông qua. Dưới sự lãnh đạo của Đại tướng, những ý kiến của Viện Khoa học Việt Nam trình lên Chính phủ được giải quyết nhanh chóng, những kiến nghị chưa được phê duyệt đều được  trao đổi, tìm hướng tháo gỡ, hoặc triển khai hướng khác. Đây là thời kỳ hoàng kim của khoa học- GS Hiệu đánh giá.

Và nhiệm vụ đặc biệt do Đại tướng giao

Năm 1978, hai Chính phủ Việt Nam và Liên Xô quyết định tổ chức chuyến bay vũ trụ hữu nghị Liên Xô – Việt Nam tại sân bay vũ trụ Baikonur của Liên Xô, với sự tham gia của phi công hai nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, Chính phủ ta thành lập Ban chỉ đạo chuẩn bị cho chuyến bay do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc đó là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Trưởng ban chỉ đạo. Đại tướng chỉ định hai người làm Phó trưởng ban. Người thứ nhất là Thiếu tướng Vũ Xuân Chiêm, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, có trách nhiệm tuyển chọn và tổ chức huấn luyện phi công vũ trụ. Và người thứ hai được Đại tướng chỉ định là GS Nguyễn Văn Hiệu.

Khi được giao nhiệm vụ Phó Trưởng ban chỉ đạo phụ trách chương trình khoa học của Việt Nam trong chuyến bay vũ trụ đặc biệt này, GS Hiệu đang đảm trách vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam (GS Trần Đại Nghĩa là Chủ tịch). Nhớ lại tâm trạng của mình khi nhận nhiệm vụ mà Đại tướng giao phó, GS Hiệu bộc bạch “Bác giao tôi làm, tôi sợ quá!”. Sau khi nhận quyết định của Phủ Thủ tướng, GS Hiệu được mời đến phòng làm việc của Đại tướng ở số nhà 30 Hoàng Diệu và nhận nhiệm vụ lựa chọn đề tài nghiên cứu cần được tiến hành trên tàu vũ trụ và soạn thảo chương trình khoa học của Việt Nam trong chuyến bay đặc biệt sắp tới.

Trong buổi trao đổi làm việc , GS Hiệu cũng chia sẻ rất thật với Đại tướng những suy nghĩ của mình về nhiệm vụ đặc biệt này, bởi đây là một nhiệm vụ khó, khá mới mẻ mà các nhà khoa học cũng như bản thân Giáo sư chưa dám nghĩ đến. Đại tướng đã động viên Giáo sư cứ bắt tay thực hiện, khó cũng phải làm và Chính phủ sẽ tạo điều kiện hết sức cho các nhà khoa học, cần gì cứ viết thư tay cho Đại tướng, thẩm quyền cho phép thì Đại tướng sẽ giải quyết ngay. Theo Đại tướng, đây là cơ hội để Việt Nam bắt đầu tiến hành một chương trình quốc gia nghiên cứu sử dụng không gian vũ trụ vào mục đích hòa bình, phát triển một lĩnh vực khoa học công nghệ cao nhất của thời đại với sự giúp đỡ của nước bạn Liên Xô. GS Hiệu còn nhớ như in những lời căn dặn của Đại tướng: Trong thời gian tới anh phải tập trung thời giờ chuẩn bị chương trình khoa học của chuyến bay, phải xây dựng một chương trình mà sau khi chuyến bay kết thúc thì phải có những nhiệm vụ tiếp tục được triển khai, chuyến bay này sẽ là sự mở đầu của một chương trình nghiên cứu sử dụng không gian vũ trụ vào mục đích hòa bình ở Việt Nam[1].

Được sự nhất trí của Viện trưởng Trần Đại Nghĩa, GS Hiệu mời các viện trưởng chuyên ngành có liên quan của Viện Khoa học Việt Nam đến nghe phổ biến thông báo của Chính phủ và truyền đạt lại các ý tưởng, ý kiến chỉ đạo của Đại tướng. Sau đó, GS Hiệu mời một số các cơ quan khoa học bên ngoài cùng tham gia chương trình đặc biệt này.

Sau khoảng từ 2 đến 3 tháng tiến hành thảo luận, bàn bạc, các nhà khoa học đã soạn thảo xong chương trình khoa học của Việt Nam trong chuyến bay vũ trụ Việt Nam – Liên Xô. Về cơ bản, các nhà khoa học đã tập trung thảo luận các vấn đề liên quan:

Vật lý và công nghệ vũ trụ; Đề xuất phương án tiến hành hai thí nghiệm về nuôi đơn tinh thể bán dẫn trong điều kiện không trọng lượng nhằm mục đích nắm được cơ chế vật lý của quá trình phát triển của đơn vị thể bán dẫn phục vụ cho chương trình nghiên cứu Vật lý bán dẫn để phát triển công nghiệp điện tử của Viện Vật lý.

Sinh học: Đề xuất thực hiện hai thí nghiệm nuôi bèo hoa dâu và trồng khoai lang để tạo nguồn dinh dưỡng cho phi công khi ở trên tàu vũ trụ dài ngày.

Y tế: Để đảm bảo sức khỏe cho phi công, các nhà khoa học Học viện Quân y đề nghị triển khai hướng nghiên cứu thử nghiệm tác dụng của cây đinh lăng đối với việc tăng cường thể lực của phi công.

Khi GS Hiệu báo cáo về những đề xuất trên, GS Trần Đại Nghĩa e ngại rằng, những vấn đề các nhà khoa học đưa ra có phần lặt vặt, chưa chắc đã nhận được sự ủng hộ của Liên Xô và ông  thấy cần đề nghị với Chính phủ cử đoàn sang làm việc trực tiếp với phía Liên Xô trao đổi về chương trình nghiên cứu khoa học đã được vạch ra. Đề nghị đã được Văn phòng Chính phủ hoàn toàn nhất trí.

GS Nguyễn Văn Hiệu đã trình bày về những đề xuất của các nhà khoa học Việt Nam tại Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Phía bạn tuy đánh giá cao những ý tưởng trong chương trình khoa học của Việt Nam thể hiện tính độc đáo, tuy nhiên có phần chi tiết. Các nhà khoa học Liên Xô đã gợi ý với GS Hiệu về việc triển khai thí nghiệm quan sát tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam từ tàu vũ trụ. Thí nghiệm ba tầng được thực hiện rất công phu dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô và Cộng hòa Dân chủ Đức: Tầng 1: Các phi công sẽ chụp ảnh lãnh thổ Việt Nam từ trên tàu vũ trụ; Tầng 2: Các phi công sẽ bay và chụp ảnh ở độ cao thấp. Đồng thời, để kiểm định thông tin thực tế từ các ảnh ở hai tầng, Viện Khoa học Việt Nam tổ chức các đoàn khoa học trong lĩnh vực trái đất, các chuyên gia đo đạc bản đồ và thực vật học khảo sát tại thực địa (tầng thứ ba) ở các vùng đã được chọn thống nhất với 2 tầng trên, chụp ảnh để đối chiếu thông tin giữa 3 tầng, trên cơ sở đó xây dựng quy trình giải đoán ảnh.

Bằng uy tín của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các đơn vị không quân Liên Xô và,các chuyên gia của Cộng hòa Dân chủ Đức cùng các thiết bị đo chuyên dụng đã đáp ứng yêu cầu của GS Hiệu để thực hiện thí nghiệm ở tầng 2. Ở cả hai tầng, các phi công vũ trụ và phi công điều khiển máy bay sẽ chụp ảnh đa phổ bằng máy ảnh quang học đa phổ MKF6 (lúc này mới có CHDC Đức sản xuất được), thiết bị chụp ảnh đặt trên tàu vũ trụ sẽ được phi công thực hiện khi tàu vũ trụ bay qua lãnh thổ Việt Nam.

Chương trình được GS Hiệu báo cáo lại với Viện trưởng Trần Đại Nghĩa và được trình lên Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông giải trình thêm một số nội dung mà Đại tướng yêu cầu trình bày rõ. Để thực hiện thí nghiệm nuôi đơn tinh thể, theo đề xuất của GS Hiệu và vài ngày sau, Đại tướng đồng ý cử các đoàn cán bộ của Việt Nam sang Liên Xô và CHDC Đức tiến hành những thí nghiệm với yêu cầu thí nghiệm phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Về cơ bản, các vấn đề được đưa ra trong bản chương trình nghiên cứu khoa học do GS Hiệu đại diện trình bày, Đại tướng đều nhất trí. Thời gian hai đoàn làm việc kéo dài trong một năm để thực hiện các thí nghiệm ở thời kỳ đó quả là một quyết định dũng cảm, mang tầm nhìn chiến lược của Đại tướng.

Sau khi có quyết định chính thức, các nhà khoa học bắt tay vào thực hiện ngay. Tháng 7-1980, GS Hiệu cùng các nhà khoa học tập trung tại thành phố Ngôi Sao, nơi đặt Trung tâm huấn luyện vũ trụ của Liên Xô. Tại đây, các ông thực hiện thí nghiệm của mình dưới sự chứng kiến của các nhà khoa học Liên Xô và nhận nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo lại cho các phi công, những người làm việc trực tiếp trên vũ trụ.

Một điều hết sức bất ngờ và phấn khởi, khi các nhà khoa học sắp hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị ở thành phố Ngôi Sao thì nhận được tin Đại tướng sang thăm. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến tận nơi các nhà khoa học đang thực hiện, kiểm tra, trao đổi với ban lãnh đạo thành phố Ngôi Sao và Ủy ban vũ trụ Liên Xô để kiểm tra chất lượng trước khi chuẩn bị bay. Phi công vũ trụ Phạm Tuân là người được chọn tham gia trình diễn bay trên tàu vũ trụ cùng với phi công Liên Xô – V.V Gorơbatcô và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thực hiện các thí nghiệm của Việt Nam trên tàu vũ trụ trong vòng một tuần (từ 23 đến 31-7-1980).

  Đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp tới thăm Trung tâm huấn luyện Gagarin,

Liên Xô, tháng 7-1980

 (Từ trái qua: Phi công Phạm Tuân, Phi công Vũ Thanh Liêm,

GS.VS Nguyễn Văn Hiệu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

Sau hai năm (1978-1980), chương trình tổ chức chuyến bay vũ trụ Liên Xô – Việt Nam trên tàu vũ trụ của Liên Xô kết thúc thành công. Những kết quả đạt được trong chương trình này đã được ghi nhận. Về mặt khoa học, công việc nuôi đơn tinh thể ở trên vũ trụ giúp Việt Nam xây dựng được hai nhóm nghiên cứu giỏi về nuôi đơn tinh thể, sau này được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu trong nước. Trong hai năm, trình độ nghiên cứu về nuôi đơn tinh thể của Việt Nam từ chỗ vẫn còn ở mức rất hạn hẹp đã có sự nhảy vọt đạt trình độ quốc tế. Đây là thành công lớn nhất của chuyến bay vũ trụ này. Đồng thời, thông qua chuyến bay, Viện Vật lý đã xây dựng được một mối quan hệ mật thiết với các Viện nghiên cứu tầm cỡ của Liên Xô và của CHDC Đức, mối quan hệ này tồn tại đến cuối những năm 1980.

Kết quả thứ hai mà chuyến bay vũ trụ đem lại là khi thực hiện các thí nghiệm viễn thám, các nhà khoa học đã xây dựng được các quy trình làm việc để có được hình ảnh đối chiếu chụp từ vũ trụ xuống mặt đất. Từ năm 1980, Việt Nam bắt đầu hình thành hướng nghiên cứu viễn thám, nghiên cứu mặt đất từ vũ trụ. Ngay sau khi chuyến bay kết thúc, Viện trưởng Trần Đại Nghĩa quyết định thành lập Trung tâm Không gian, sau đổi tên thành Trung tâm Viễn thám, đánh dấu sự ra đời của ngành Viễn thám Việt Nam năm 1980.

Chủ trương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về một chương trình sử dụng không gian vũ trụ vào mục đích hòa bình được bắt đầu bằng chuyến bay vũ trụ Việt – Xô, đến hôm nay, với sự nỗ lực không ngừng của các nhà khoa học, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của GS Hiệu, cùng với sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, việc phát triển kỹ thuật viễn thám và khả năng ứng dụng khá rộng rãi ở Việt Nam đã chứng minh ý nguyện của Đại tướng đã được thực hiện. Đồng thời, thành công của chuyến bay đã chứng minh khả năng sáng tạo, ứng dụng, tổ chức và thực hiện nhiệm vụ của các nhà khoa học Việt Nam – tiêu biểu là GS, VS Nguyễn Văn Hiệu.

Mười lăm năm được làm việc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, chỉ đạo sát sao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, là một sự kiện đặc biệt không thể quên của GS.TSKH, Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Những bài học về tính quyết đoán, sự quan tâm thấu đáo mọi việc, tầm nhìn chiến lược và khả năng hội tụ các nhà khoa học để thực hiện một chương trình thế kỷ của Đại tướng là kim chỉ nam trong suốt những năm tháng làm công tác quản lý khoa học của Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu

 

Nguyễn Thị Hiên

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam


[1]  Ghi âm phỏng vấn GS.TSKH Nguyễn Văn Hiệu, ngày 9-10-2013