Thực trạng đời sống của người dân
Thế chiến thứ II nổ ra vừa tròn 1 năm, Nhật kéo vào Đông Dương qua biên giới Việt – Trung (22-9-1940), buộc Pháp phải đầu hàng và chấp nhận việc phân chia quyền lợi trên toàn cõi Đông Dương. Nhân dân Việt Nam vốn đã chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của chủ nghĩa thực dân, nay lại thêm cơ cực bởi cảnh “một cổ hai tròng” trước sự giày xéo của Nhật – Pháp. Sự khốn cùng của người dân được đẩy lên đỉnh điểm khi nông nghiệp hoàn toàn bị kiệt quệ do quân đội Nhật ra lệnh nhổ lúa để trồng đay, thầu dầu… phục vụ chiến tranh. Mặt khác, chúng thu mua thực phẩm mà chủ yếu là lúa gạo theo lối cưỡng bức với giá rẻ mạt làm cho lương thực, thực phẩm khan hiếm trầm trọng. Sự thiếu thốn về dinh dưỡng, về chăm sóc thuốc men khiến cho nạn dịch và nạn đói cùng lúc xảy ra trên toàn miền Bắc. Các đại dịch liên quan tới vi khuẩn và ký sinh trùng như lao phổi, dịch hạch, sốt rét, … bùng phát và lây lan với tốc độ khủng khiếp, trong khi thuốc điều trị còn hạn chế, không đủ đáp ứng cho quá nhiều bệnh nhân. Những hình ảnh thương tâm về“mỗi buổi sáng, hàng xe bò chở tử thi chết trên đường sá (chợ Mơ), không đủ chỗ chôn cất, phải thiêu xác”[1] đã nói lên thảm cảnh kinh hoàng về nạn đói năm Ất Dậu (1945) tại Hà Nội.
Phòng làm việc của GS Đặng Văn Chung tại nhà riêng,số 12, phố Hai Bà Trưng, Hà Nội
Bệnh viện Bạch Mai – nơi sinh viên Đặng Văn Chung đang làm việc và tiếp tục học tập sau khi xuất sắc vượt qua kỳ thi tuyển bác sỹ nội trú (năm 1937) – trong thời điểm đó chỉ có Khoa Lây, Khoa Nội và một vài khoa khác. Thế nhưng “gánh nặng về Y tế”[2] nảy sinh từ thời cuộc đã dồn xuống cái “cơ ngơi” tuềnh toàng, nhếch nhác như những dãy nhà tạm đó. Bệnh nhân ngày càng đông, lại đủ thứ bệnh, đủ thành phần, mà chủ yếu là người nghèo đói, khốn khổ… Khó khăn càng thêm chồng chất khi “bác sỹ, y tá, hộ lý ít ỏi không thể bảo đảm chăm sóc và cũng có một số bác sỹ chết vì bị lây lan bệnh”[3]. Giữa tình cảnh đó, tấm lòng đối với con người, đặc biệt với những người nghèo khổ là động lực thúc đẩy bác sỹ Đặng Văn Chung vận dụng kiến thức đã học để tham gia hết mình, tận tâm trong công tác điều trị và chăm sóc bệnh nhân.
Tới giữa tháng 5-1945, nạn đói kém, dịch bệnh càng lúc càng trở nên thê thảm: “Thây người ngổn ngang vỉa hè, xó chợ. Trẻ con bụng ươn, chân phù. Con người không ra dáng người nữa, còn hơn thú vật: nhặt thức ăn trong rác, ăn lá cây bên đường”[4]. Tại Bệnh viện Bạch Mai, số lượng bệnh nhân ngày càng nhiều: “Bệnh tật chủ yếu là ghẻ lở và gầy chỉ còn da bọc xương, da chân phù nề và bị lở loét hôi hám”. Không những thế, họ còn mắc phải các chứng bệnh về tiêu chảy, lao phổi, ký sinh trùng đường ruột, ký sinh trùng máu… Thời điểm ấy, tất cả các thuốc phổ biến trong Y học cũng như kinh nghiệm điều trị trước đó đã được Bác sỹ Đặng Văn Chung đưa ra sử dụng như: Urotropin, Blue Methylene… nhưng đều ít hiệu quả. Ông nhận thấy rằng nguyên nhân chính gây ra bệnh tật cho người dân chính là vi khuẩn, mà chúng ta lại không có thuốc chống nhiễm trùng, diệt vi khuẩn để điều trị cho bệnh nhân. Thực trạng đó, 5 năm trước (1940) ông đã nhận thấy rất rõ ở nước ta, và chính ông từng thành lập "Đội sinh viên tình nguyện tuyên truyền phòng bệnh” để giáo dục kiến thức phòng tránh bệnh (chủ yếu là bệnh về ký sinh trùng) cho người dân tại một số làng ở khu vực ngoại thành Hà Nội. Tuy nhiên, giữa lúc nạn đói đã lên tới đỉnh điểm khi củ chuối, vỏ trấu không còn, cây cối đã trụi sạch lá, thậm chí “cỏ cũng bị nhổ hết”[5] thì việc tuyên truyền cũng không còn tác dụng.
Những nỗ lực của ngành Y tế
Thế chiến thứ II đang ở trong giai đoạn ác liệt nhất, con số thương vong càng lúc càng cao ở khắp các mặt trận. Khi đó, Việt Nam – địa bàn chiếm đóng của phát xít Nhật và đế quốc Pháp đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của hai tròng áp bức, kéo theo nó là nạn đói, nạn dịch ngày càng trở nên trầm trọng và phức tạp đến mức không thể kiểm soát thì thuốc kháng sinh lần đầu tiên được đưa vào nước ta. GS Đặng Văn Chung sau này nhớ lại: “Nhờ có tai họa trên mà đồng bào ở các nước tìm cách chuyển thuốc về Việt Nam để sử dụng vì người ta có kinh nghiệm, thuốc được đưa về là Sulfamid – thuốc kháng khuẩn đầu tiên trên thế giới. Thuốc Sulfamid có màu đỏ, sau đó thuốc màu trắng và loại tiêm”[6]. Ngay sau khi được tiếp nhận những viên thuốc kháng sinh đầu tiên, Đặng Văn Chung cùng các đồng nghiệp đã đưa vào sử dụng cho nhiều trường hợp đặc biệt như viêm màng não do não mô cầu, bệnh thương hàn…, tạo nên bước ngoặt lớn trong công tác điều trị bệnh. Tác dụng của kháng sinh trong điều trị tụ cầu khiến ông cảm thấy rất phấn khởi. Tiếp đó, nhiều loại kháng sinh khác cũng dần xuất hiện và được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt là Penicilin – chất kháng sinh được phát hiện năm 1940, đưa vào sản xuất đại trà vào đầu năm 1945 bởi hai quốc gia Anh, Mỹ. Nếu như “Trước thời kỳ Sulfamid, Y học chỉ lờ mờ theo chân của Đông y Trung Quốc với thuốc men dựa trên Y lý Âm Dương”[7] thì tới thời điểm này, thuốc kháng sinh đã đánh dấu một thời kỳ điều trị bệnh cụ thể hết sức hiệu quả. Thành tựu đó đã tạo điều kiện để thúc đẩy việc chẩn đoán các loại vi khuẩn chuẩn xác, khoa học và kịp thời hơn, sức khỏe của người dân ngày càng được cải thiện.
Có thể nói nền Y học nước nhà cũng có những bước chuyển đồng hành với vận mệnh lịch sử của đất nước. Đã có những khó khăn, thử thách tưởng chừng không thể cứu vãn nổi, và rồi xuất hiện những tình thế, giải pháp tối ưu để khắc phục và vươn lên tầm cao mới. Trong Hồi ký của mình, GS Đặng Văn Chung có viết: “Đó là thời kỳ thay đổi, tiến bộ nhanh Y học nước nhà, một hiện tượng cách mạng trong Y học (Phase révolutionnaire), bước nhảy vọt song song với thời kỳ Cách mạng chính trị, xã hội. Từ đó Y học nước nhà tiếp tục tiến lên về Khoa học – kỹ thuật”[8]. Để rồi sau đó Y học Việt Nam bước thêm một nấc thang mới, đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt về chẩn đoán, điều trị và phòng chống bệnh tật. Từ sau Cách mạng tháng Tám, rồi toàn quốc kháng chiến cho đến nay, ngành Y tế nước nhà luôn luôn được quan tâm trang bị máy móc, tích cực bồi dưỡng nâng cao Y năng, Y đức nhằm đáp ứng nhu cầu về điều trị, chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Giáo sư Đặng Văn Chung đã trải qua những thời khắc cam go nhất cùng dân tộc, ông đã tận tụy, dấn thân vào công việc cứu chữa người bệnh cùng “các đồng nghiệp trẻ hơn và phương tiện thô sơ” tại Bệnh viện Bạch Mai, trong muôn vàn khó khăn, gian khổ của thời cuộc. Và, có thể nói rằng chính thời kỳ khắc nghiệt ấy đã vun đắp cho ông những kinh nghiệm quý báu trong nghề nghiệp cũng như trong sự nghiệp giảng dạy sau này.
Xin được mượn câu nói của nhà văn hiện thực người Pháp – Honore De Balzac để thay cho lời kết: “Hoàn cảnh khó khăn là nấc thang cho bậc anh tài, là một kho tàng kiến thức cho người khôn khéo…”.
Đỗ Minh Khôi
______________________
[1] Trích trong “Hồi ký thời kỳ Y tế gay go nhất nước nhà” của GS Đặng Văn Chung.