1. Thạch Hãn – Dòng sông lịch sử
Dòng sông Thạch Hãn khởi nguồn từ dãy núi Trường Sơn hùng vĩ phía Tây tỉnh Quảng Trị, qua cửa Việt trước khi hòa mình vào biển Đông. Tự bao đời, dòng sông đã hằn sâu trong tâm thức những người con sinh ra và lớn lên trên dải đất đầy nắng gió này bởi thủy lượng dồi dào, tinh túy, đem về nguồn xanh tốt cho các đồng bằng hạ lưu. Không thơ mộng như dòng Hương giang của xứ Huế, cũng chẳng dữ dội và hiểm trở giống dòng Đà giang miền Tây Bắc… Song, cũng như bao dòng sông khác, Thạch Hãn ôm trọn những thăng trầm biến động của một miền quê, là chứng nhân muôn thuở trong trang sử hào hùng của đất nước.
Dòng sông Thạch Hãn là nơi chứng kiến tinh thần yêu nước, ý chí quả cảm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng biểu hiện trong 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong việc ký kết Hiệp định (27-1-1973). Điều VIII của Hiệp định Paris có ghi rõ:“Việc trao trả nhân viên quân sự và nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ ở miền Nam Việt Nam giải quyết trên nguyên tắc Điều 21(b) của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 và phải trao trả trong vòng 90 ngày sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực”[1]. Trên tinh thần của Hiệp định này, các cuộc trao trả tù binh giữa ta và địch đã được tiến hành.
Tháng 3-1973, bờ Bắc sông Thạch Hãn lại là nơi ghi dấu biết bao nụ cười và cả những giọt nước mắt khởi phát từ niềm vui sướng, hạnh phúc đến tột cùng của những người chiến thắng trở về. Họ đã đấu tranh kiên cường cho nền hòa bình, thống nhất của Tổ quốc ngay cả khi bị giam cầm trong những “địa ngục trần gian” mà đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn lập nên.
2. Nhiệm vụ thiêng liêng
Vào thời điểm này, Bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch đang học lớp chuyên tu[2] 71 thuộc trường Đại học Y Hà Nội. Lớp của ông được Bộ Y tế và Ban Giám hiệu nhà trường điều động vào Quảng Trị làm công tác chăm sóc, phục hồi sức khỏe cho anh chị em vừa được trao trả từ nhà tù đế quốc. Nhiệm vụ của đoàn là có mặt tại địa điểm nơi ta và địch tổ chức trao trả tù binh, đảm bảo vệ sinh phòng dịch, khám phân loại, hộ tống an toàn các chiến sĩ trên đường đi ra hậu phương.
Khoảng thời gian làm việc ngắn ngủi, gấp rút trong điều kiện vô cùng khó khăn tại đây đã đọng lại trong bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch nỗi xúc động, lòng cảm phục xen lẫn niềm tự hào: Những con người vừa bước ra khỏi nhà tù đế quốc dẫu trên thân thể có in hằn bao vết thương, bao di chứng nặng nề, đau đớn thì trên môi họ luôn thường trực những nụ cười – gói trọn niềm lạc quan, tin tưởng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Trong bản báo cáo của mình, bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch có ghi lại: “Sau khi tiếp nhận ở bờ sông Thạch Hãn, anh chị em được đưa về Đông Hà để nghỉ ngơi rồi sau đó sẽ chuyển ra Sầm Sơn. Ở đây phải làm công tác sơ bộ phân loại bệnh tật để phục vụ cho hộ tống được an toàn và kịp thời điều trị. Trước hết cần nói rằng chúng tôi đã phải tiến hành công tác trên đây trong tình trạng hết sức khẩn trương ở một nơi bị tàn phá ác liệt vào bậc nhất nên gặp nhiều khó khăn thiếu thốn”[3]. Theo chỉ đạo từ cấp trên, đoàn chỉ được phép nghỉ qua một đêm tại Đông Hà để các đồng chí lãnh đạo gặp mặt, nhân sự làm việc và cán bộ y tế tiến hành khám bệnh phân loại. Thời gian ngắn ngủi và gấp rút, lại thêm số lượng người được đưa về mỗi lúc một đông nên công việc khá căng thẳng: “Mỗi ngày có khi 200, có khi 400 đến 500 người về cùng một lúc”[4], đoàn bác sỹ chuyên tu phải làm tích cực cả ngày lẫn đêm trong điều kiện “phương tiện thì chỉ có ống nghe, huyết áp kế và 2 bàn tay trắng, nơi khám bệnh là nhà bạt hoặc nhà mái tôn mới được dựng lên, không có bàn ghế), anh chị em nằm, ngồi chỗ nào thì đến khám tại chỗ đó”[5]. Mặc dù vậy, bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch cùng các đồng nghiệp đã cố gắng hết sức mình để có thể khám một cách toàn diện và đạt tới mức độ tốt nhất bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ. Đoàn cán bộ y tế cũng đã tạm thời quy định một số tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh để thống nhất trong phân loại. Với tinh thần làm việc đầy nỗ lực, bằng tình cảm và trách nhiệm, họ đã nắm vững được quân số và không bỏ sót khám phân loại một trường hợp nào trước khi lên đường ra nơi nghỉ dưỡng ở Sầm Sơn.
3. Những con người trở về từ “địa ngục”
Quá trình khám và phân loại bệnh, bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch đã ghi chép lại một cách chi tiết về tình hình bệnh tật của anh chị em từ khi bị bắt. Xét theo các chuyên khoa, họ đều bị mắc phải các bệnh về hô hấp, tiêu hóa, tim mạch, thần kinh, ngoài da, cơ xương khớp, nội tiết sinh dục, tiết niệu. Trong đó các bệnh về hô hấp chiếm tỷ lệ cao nhất (29,88%)[6] như hen phế quản, lao phổi, tràn dịch màng phổi, ho ra máu, đau ngực… mà nguyên nhân chủ yếu là do chế độ hà khắc trong nhà tù đế quốc. Bên cạnh đó có một bộ phận không nhỏ những người bị mắc phải di chứng từ chấn thương ngoại khoa (12,9%) do quá trình chiến đấu và chịu các hình thức đàn áp, tra tấn dã man như: đóng đinh vào xương, dùng gậy sắc cạnh đánh vào xương chày… mà không được chữa trị nên có nhiều đồng chí trở về còn mang những vết thương chảy mủ. Số người bị tăng huyết áp cũng chiếm 8,94%, trong đó có nhiều người ở mức độ nguy hiểm. Dựa vào số liệu đã thu được, ông đưa ra nhận định: “Hệ thống các nhà tù của chính quyền Sài Gòn là một địa ngục trần gian. Chúng đã tra tấn, đánh đập, dọa nạt, ngày cũng như đêm, liên tục, kéo dài… tình cảm, nhân phẩm bị xúc phạm một cách trắng trợn . Các tù nhân luôn phải đối mặt giữa sự sống và cái chết, nhưng các anh chị em vẫn không ngừng đấu tranh căng thẳng, quyết liệt và gay gắt. Có lẽ đó cùng là nguyên nhân chính gây ra bệnh tăng huyết áp ở đây. Anh chị em bị chúng giam giữ thường xuyên cũng bị dọa nạt, đánh đập, tra tấn, lúc nào cũng bị chúng tác động tâm lý, lại không ngừng đấu tranh căng thẳng giữa địch và ta, giữa chống ly khai và ly khai, giữa sự sống và cái chết – ngày cũng như đêm, liên tục, kéo dài… thần kinh luôn bị căng như sợi dây đàn, tình cảm, nhân phẩm bị xúc phạm một cách trắng trợn, có lẽ đó là nguyên nhân chính của bệnh tăng huyết áp ở đây”[7]. Nhận định đó cũng phù hợp với ý kiến của Giáo sư Đặng Văn Chung: “Do thần kinh luôn luôn trong tình trạng kích thích nên các động mạch nhỏ ngoại biên co lại, sau dần thành thực thể xơ cứng các động mạch nhỏ, nghĩa là không hồi phục được nữa, huyết áp sẽ tăng vĩnh viễn”[8]. Bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch cũng lập ra bảng tỷ lệ % số người được khám theo lứa tuổi, theo đó lứa tuổi từ 21 – 40 là nhiều nhất (75,99%). Họ đều là những chiến sĩ tham gia chiến đấu và bị giam cầm ở các nhà tù Phú Quốc, Chí Hòa, Ban Mê Thuột, Thủ Đức, Tân Hiệp…
Bảng số liệu về tỷ lệ bệnh tật của các chiến sĩ chiến thắng trở về, do bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch thống kê
Khoảng thời gian phục hồi sức khỏe cho hơn 2600 anh chị em trở về từ nhà tù đế quốc đã đọng lại biết bao kỷ niệm và sự xúc động mạnh mẽ đối với bác sỹ Nguyễn Khánh Trạch. Mỗi vết thương trên thân thể người chiến sĩ bị địch bắt tù đày là một câu chuyện về tinh thần bất khuất, nghị lực kiên cường trong những năm tháng đấu tranh không biết mệt mỏi cho lý tưởng cách mạng. Hình ảnh anh Nhiệm – người chiến sĩ yêu nước mang trên mình bao vết tích tra tấn của nhà tù đế quốc là một điển hình. Chúng đã dùng anh làm vật thí nghiệm, cắt ruột anh nối với bàng quang, rồi những trận đòn làm da thịt anh thâm tím, lở loét, 2 chân anh đã liệt không còn cử động được. “Nhìn đến anh ai mà không rơi nước mắt? Ai có thể nghĩ rồi đây tấm thân tàn ấy còn làm ăn gì được nữa?”[9], thế nhưng: “Thật đáng tự hào bởi con người Cách mạng ấy. Bao vết thương chồng chất nhưng trên môi anh luôn nở nụ cười, khuôn mặt anh không chút nào buồn tủi, anh vẫn nói, vẫn cười, vẫn tự hào và lạc quan khi được trở về với Tổ quốc”[10]. Ngoài anh Nhiệm, còn biết bao chiến sĩ như anh Lãm, anh Xuồng, anh Nghiên… dù bị đánh đập gãy hết 2 hàm răng nhưng vẫn kiên trung, bất khuất . Câu chuyện về những đòn tra tấn hiểm độc mà địch đã dùng để đánh đập các chị em phụ nữ là một minh chứng cho sự dã man, tàn khốc của nhà tù đế quốc: “Có chị bị dò bàng quang, bị rách bộ phận sinh dục vì những mảnh chai bia. Đại đa số chị em phụ nữ đều bị bệnh phụ khoa… Mỗi phút giây sống bên họ, nghe lời họ kể và nhìn những vết thương chúng tôi không khỏi đau lòng”[11].
Ngày ấy đã lùi xa vừa tròn 40 năm, nhiều người con bất khuất, kiên trung trở về bên bờ Thạch Hãn ngày ấy đã ra đi vì vết thương quá hiểm ác, vì bệnh tật nặng nề… Những người còn lại nay đã ở độ xế chiều, họ vẫn kiên cường chống chọi với cơn đau đớn hành hạ mỗi khi trái gió trở trời – di chứng của chiến tranh, của ngục tù đế quốc để sống tốt đời đẹp đạo, vui vầy cùng cháu con. Vừa qua (4-2013), tại Quảng Trị đã diễn ra một cuộc gặp mặt truyền thống Kỷ niệm 40 năm Chiến sĩ Cách mạng bị địch bắt tù đày chiến thắng trở về. Họ cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của một thời sôi nổi, hào hùng trong nỗi xúc động dâng trào.
Đối với GS.TS Nguyễn Khánh Trạch, những ngày được vinh dự phục vụ anh chị em chiến thắng trở về năm 1973 là một dấu ấn đậm nét trong sự nghiệp của mình. Cho tới nay, hình ảnh của những người chiến sĩ quả cảm, giàu nghị lực mà ông may mắn được tiếp xúc vẫn còn nguyên trong ký ức. Và dường như đó là động lực không nhỏ để ông cống hiến hết mình cho công việc cứu chữa bệnh nhân sau này.
Đỗ Minh Khôi – Lưu Thị Thúy
_______________________
[1] Bài báo “Đón những người chiến thắng trở về” của Phan Văn Thịnh
http://www.baoquangtri.vn/default.aspx?TabID=74&modid=405&ItemID=66915
[2] Lớp chuyên tu: Đào tạo các bác sỹ chuyên tu để phục vụ cho chiến trường và vùng sâu, vùng xa ở các tuyến Y tế cơ sở.