GS.TSKH Phan Trường Thị sinh năm 1935, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Viện trưởng Viện đá quý trang sức, Ủy viên thường vụ Hội Địa chất Việt Nam. Ông là cựu sinh viên khóa I của Đại học Bách khoa Hà Nội, thuộc “lứa” thứ ba được nhận học hàm Giáo sư ngành Địa chất sau GS.TS Nguyễn Văn Chiển và GS.TSKH Tống Duy Thanh. Phóng khoáng, dễ gần là cảm nhận của tôi về vị Giáo sư đất võ Bình Định này. Với kiến thức chuyên môn sâu rộng, GS Phan Trường Thị đã góp phần tạo ra nhiều sự thay đổi trong nghiên cứu thăm dò các nguồn năng lượng hạt nhân ở nước ta.
GS Phan Trường Thị
Trong buổi trao đổi, GS Phan Trường Thị đã chia sẻ với chúng tôi về quá trình nghiên cứu thăm dò và phát hiện quặng chứa Uranium ở vùng Nam Trung Bộ, thuộc địa khối Kon Tum. Đó là những kỷ niệm, những khó khăn, bất cập mà ông và các đồng nghiệp đã trải qua trong những năm 80, 90 của thế kỷ trước.
Trong quá trình nghiên cứu về địa khối Kon Tum để phục vụ việc làm luận án Tiến sĩ khoa học được bảo vệ tại Đại học Tổng hợp Lômônôxốp (1981), Phan Trường Thị đã phát hiện ra một số loại đá có độ phóng xạ khác thường. Đó là dấu hiệu dự báo có thể tìm thấy quặng chứa Uranium ở khu vực này. Sau đó, trong một Hội thảo khoa học về phát triển vùng Tây Nguyên, ông đã mạnh dạn đưa ra một ý tưởng nghiên cứu thăm dò về năng lượng phóng xạ trong địa khối Kon Tum.
Trước đó, Tổng cục Địa chất đã thành lập Đoàn Địa chất Phóng xạ (Đoàn Địa chất 10) phụ trách việc nghiên cứu thăm dò các nguồn năng lượng nguyên tử trong nước. Giữa những năm 1980, Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia do GS Nguyễn Đình Tứ và GS Phạm Duy Hiển lãnh đạo đang tiến hành thực hiện chương tình nghiên cứu tổng quan về các nguồn năng lượng nguyên tử trong cả nước. GS Phan Trường Thị được tin tưởng giao cho chủ trì Đề tài “Xác lập cơ sở khoa học cho việc đánh giá tiềm năng các nguyên liệu công nghiệp hạt nhân”.
Lịch sử nghiên cứu về nguồn năng lượng nguyên tử ở Việt Nam bắt đầu từ thời Pháp thuộc khi vợ chồng nhà bác học Marie Curie phát hiện các mỏ quặng chứa Uranium ở Cao Bằng. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, nghiên cứu thăm dò nguồn năng lượng phóng xạ cũng chỉ tập trung ở vùng Cao Bằng và các tỉnh khác ở vùng Đông Bắc. Mà như GS Phan Trường Thị đánh giá sau khi đã tham gia khảo sát vùng này: “các mỏ quặng chứa Uranium ở Cao Bằng do vợ chồng nhà bác học Marie Curie phát hiện rất bé như 3 cái rổ nằm đơn độc trên núi đá vôi với diện tích bề mặt chưa được 3 km2. Trong khi đó, các khảo sát cho thấy ở Miền Bắc không phát hiện được nơi nào khác có quặng chứa Uranium”.
Nghiên cứu lại các tư liệu về địa khối Kon Tum, ông phát hiện ra trong những ghi chép nhật ký địa chất có nói về độ phóng xạ khác thường tại một số vùng ở Quảng Nam (phía Bắc của địa khối Kon Tum). Ông cùng đoàn nghiên cứu địa chất thuộc Khoa Địa chất, Đại học Tổng hợp Hà Nội đã tiến hành thăm dò và lấy mẫu nghiên cứu. Đoàn nghiên cứu phát hiện ở Tiên An có độ phóng xạ cao gấp nhiều lần bình thường. Sau khi phân tích các mẫu đưa về, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy một mẫu quặng chứa Uranium ở đây. Mỏ quặng ở Tiên An trở thành mỏ có nguyên liệu năng lượng nguyên tử đầu tiên được phát hiện ở vùng Nam Trung Bộ. Phát hiện này cũng mở ra hướng nghiên cứu thăm dò nguyên liệu phóng xạ mới ở Việt Nam. Như GS Phan Trường Thị chia sẻ: “Phát hiện ra mỏ quặng chứa Uranium ở Tiên An, Quảng Nam đã làm thay đổi, chuyển hướng nghiên cứu thăm dò các nguồn năng lượng hạt nhân ở Việt Nam từ phía Bắc vốn hạn chế và trữ lượng ít vào miền Nam Trung Bộ hứa hẹn trữ lượng lớn gấp nhiều lần hơn”. Từ phát hiện ban đầu này, Phan Trường Thị đã có những ý tưởng mạnh dạn hơn: “Đầu những năm 1990, khi chúng tôi phát hiện ra mỏ quặng chứa Uranium ở Quảng Nam thì Tổng cục Địa chất đang tiến hành khảo sát đo độ phóng xạ bằng máy bay ở vùng Phú Yên. Với mong muốn mở rộng tìm kiếm ở Quảng Nam, tôi trực tiếp đến gặp anh Trần Đức Lương lúc đó đang là Tổng Cục trưởng và đề xuất chuyến hướng thăm dò ra Quảng Nam để mở rộng nghiên cứu vùng quanh khu vực mỏ Tiên An. Đề xuất được chấp nhận và nhóm chuyên gia Liên Xô cùng Đoàn Địa chất 10 đang thực hiện bay đo phóng xạ ở Phú Yên chuyển ra bay đo ở vùng Quảng Nam”. Kết quả của đề xuất này là đã phát hiện ra mỏ quặng chứa Uranium Nông Sơn, là mỏ lớn nhất ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á cho đến nay.
Tiếp tục câu chuyện về quá trình tìm kiếm quặng Uranium, GS Phan Trường Thị bày tỏ: “Tôi có một suy nghĩ là làm sao đưa khoa học vào đời sống để phát triển kinh tế- xã hội, phát triển khoa học- kỹ thuật. Đó là một niềm mong ước nhất không chỉ của riêng tôi mà của cả những người làm khoa học”. Thời gian ông tham gia nghiên cứu thăm dò năng lượng phóng xạ ở miền Trung, ông đang là Phó Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công việc rất bộn bề nhưng ông vẫn cố gắng sắp xếp để đi nghiên cứu thực địa: “Là một nhà nghiên cứu địa chất, một năm dù bận rộn thế nào cũng phải sắp xếp đề đi nghiên cứu thực địa ít nhất là 2-3 tháng. Lúc đó, tôi được Nhà nước cấp cho một chiếc xe O-oat để đi lại. Lúc bấy giờ đời sống khó khăn, đi từ ngoài Bắc vào Nam, chúng tôi chở thêm 1- 2 thùng phi xăng vào bán rồi lại mua cá mắm chuyển từ Nam ra Bắc để kiếm thêm tiền “bù lỗ” vì đề tài nghiên cứu được trợ cấp 6 triệu đồng”.
Đi nghiên cứu về quặng chứa phóng xạ cũng có nhiều mối nguy hiểm: “Một lần ở Tiên An, nhóm đi nghiên cứu trong đó có mình mua một con lợn về ăn, khi mổ ra trong bụng toàn chất đất màu đen. Cho máy dò vào đo thì phát hiện độ phóng xạ rất cao. Từ đó mình không dám ăn thịt lợn ở đó nữa”.
Kết thúc buổi trao đổi, GS Phan Trường Thị chia sẻ với chúng tôi quan điểm của ông: “Người ta vẫn thường nghĩ nghiên cứu thăm dò quặng chứa Uranium là để phát triển điện hạt nhân và sản xuất vũ khí nguyên tử để chạy đua vũ trang. Tuy nhiên, nó còn nhiều ý nghĩa nhân văn khác mà người ta chưa biết đến. Nếu thăm dò được các mỏ chứa quặng phóng xạ thì phát hiện được mối nguy hiểm đe dọa tính mạng của nhân dân trong vùng vì độ phóng xạ cao quá sẽ gây ra nhiều căn bệnh ung thư, máu trắng và nhiều bệnh hiểm nghèo khác. Phải nghiên cứu thăm dò và phát hiện để có kế hoạch di dân ra khỏi vùng nguy hiểm”.
Nguyễn Thị Bích Phương
Trung tâm di sản các nhà khoa học Việt Nam