Người phụ nữ của rau

 .. Bỏ nghiệp buôn về với đồng ruộng

Thủa nhỏ, Thu Cúc thừa hưởng cốt cách của ông nội là một nhà nho, đức cần mẫn của người bố là kế toán cho một hãng buôn của người Pháp, và thừa hưởng sự nhẫn nại, niềm đam mê lao động của bà, của mẹ, của những bà con nông dân trong vùng. Anh em Thu Cúc được bố trực tiếp dạy cho chữ. Sau đó mới đi học ở lớp trường làng. Kháng chiến bùng nổ, người cha bỏ hãng buôn đi theo cách mạng, ông làm ở phòng Giao tế của An Toàn Khu (ATK), lên đến Trung đội phó. Cả nhà có 4 anh trai đều theo bố lên chiến khu.

Cúc cũng theo mẹ đi tản cư, đi đâu học đấy. Gian khổ khó khăn trong một cuộc sống thường xuyên phải tản cư khiến người mẹ lâm bệnh ốm nặng rồi qua đời khi Cúc còn nhỏ. Cúc được bố gửi vào một gia đình ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên, rồi học cấp hai ở trường Hiệp Hoà. Cô bé Thu Cúc luôn luôn đạt danh hiệu học sinh xuất sắc, học sinh gương mẫu của trường. Khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm trường, Cúc còn được chọn vào nhóm dâng hoa cho Thủ tướng. Đó là niềm vinh hạnh trong trái tim cô bé học trò ngày ấy.

Năm 1954, tiếp quản Thủ đô, Thu Cúc được bố đưa về Hà Nội, học cấp ba ở trường con em cán bộ Lý Thường Kiệt. Đang học lớp 8 thì Cúc được chọn sang học khoá đầu ở trường bổ túc công nông Trung ương, do bố xin nhà trường với lý do: cháu Cúc thích học nông nghiệp!

Thời kỳ này có những gia đình có tiểu sử rất lạ. Gia đình Tạ Thu Cúc là một trong những gia đình như vậy. Bị quy là thành phần tiểu tư sản, nhưng họ không có một tấc đất cũng như của nả gì, chỉ là do vốn học vấn của người cha và sau này là các con được học hành trong vùng kháng chiến. Nhưng đồng thời cũng là một trong những gia đình được công nhận có công với cách mạng. 

Khi ghi nguyện vọng vào đại học, ở cả ba nguyện vọng, Cúc đều ghi: Nông nghiệp.

Và Thu Cúc đã đạt được nguyện vọng của mình khi thi đỗ vào khoá I Học viện Nông Lâm, nay là trường Đại học Nông nghiệp I.

Học hết năm thứ ba vào năm 1959 thì Thu Cúc được chọn đi học tiếp ở Trung Quốc, để lại nơi quê hương một mối tình. “Người ấy” của Cúc là Trần Đình Đằng, bạn học cùng lớp, quê Quảng Nam. Sang Trung Quốc, Thu Cúc được học ngành Rau Quả, Khoa Viên nghệ thuộc Viện Hoa Nam, Quảng Châu. Cô đã không để phí thời gian. Những kiến thức học được từ thầy giáo Trung Quốc, từ thực tế đất nước Trung Quốc bấy giờ đã cho Cúc rất nhiều kinh nghiệm và ý chí để sau này sẽ là những thực nghiệm thành công trên đồng đất Việt Nam.

Hành trình cùng rau

Tháng 7/1962, về Bộ Nông Nghiệp, với tấm bằng tốt nghiệp đại học và cao học chuyên ngành cây rau,Thu Cúc được cử về Trường Đại học Nông nghiệp I làm giảng viên từ đó cho đến khi về hưu.

”Ban đầu khi về trường, tôi được anh Hoàng Đức Phương là Trưởng bộ môn giao trách nhiệm sau 6 tháng phải có giáo trình dạy. Bộ môn Rau Quả lúc bấy giờ làm gì đã có giáo trình. Hoảng quá. Thế là phải tìm mọi cách để đi thực tế”. Bà kể lại với nụ cười vui.

Công cuộc đi thực tế của bà như một hành trình về với đồng đất và người nông dân. Bà đạp xe đi khắp các vùng ngoại thành, có khi đi bộ hoặc đi tàu điện, rồi lại xuống đáp bộ. Bà đã đến các vùng rau chuyên canh của Thanh Trì, Lĩnh Nam, Nhật Tân, Bắc Ninh, Xuân Tiên – Nam Định, Hải Phòng… để tham khảo và học hỏi kinh nghiệm thực tế. Mới về trường, lại còn rất trẻ, bộ môn Rau Quả thì chưa thành hình, không có sinh viên, không có điều kiện tối thiểu cần thiết. Chỉ có mỗi một điều kiện trên thực tế là mỗi khi cần phân, cần giống thí nghiệm, cần công thì báo cho một bác tên là Đường, nhân viên phụ trách của trường để báo ra trại thí nghiệm giải quyết. Vừa tìm hiểu thực tế, vừa soạn giáo án, sau một thời gian, bà đã có một tập bài giảng tương đối mới mẻ cho ngành Rau Quả.

Thí nghiệm đầu tiên thành công của bà là trồng rau muống cạn. Bà trực tiếp ra ruộng cuốc đất, gieo trồng, chăm sóc từng luống rau. Để sau đó rút ra lý luận cho bài giảng và phổ biến kinh nghiệm cho người nông dân.

Sau đó, bà tiến hành khảo sát nghiên cứu nhiều giống rau mới nhập nội như su hào, bắp cải, súp lơ, đậu đỗ, cà chua, ớt… Nghiên cứu về mức độ thích nghi, năng suất chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh, các giống rau củ quả đó có phù hợp với đồng bằng sông Hồng không ? v.v…

Giờ đây bất cứ mùa nào những người nội trợ cũng có thể mua cà chua. Nhiều người không biết rằng để quanh năm có được những quả cà chua, nhà khoa học Tạ Thu Cúc đã vận dụng những kiến thức được học hỏi qua bao năm tháng; đã đổi công sức, trí tuệ, tuổi trẻ của mình trên những mảnh ruộng thí nghiệm. Đó là những năm 1967-1970. Nhưng nhiều nông dân trực tiếp sản xuất cùng bà thì không bao giờ quên cái ngày bà đưa giống chọn cho họ, không ít người đã hoài nghi. Họ cũng không quên, với đề tài khoa học này, thu nhập của họ đã khá hơn, cuộc sống của họ được cải thiện, nhất là trong bữa ăn gia đình.

Năm 1985, bà bảo vệ luận án Phó tiến sĩ về đề tài: “Khảo sát một số giống cà chua nhập nội trồng trong vụ xuân hè”. Với đề tài này, bà được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cấp bằng “Lao động sáng tạo”.

Bà con nông dân ở huyện Mê Linh, tại các HTX Tiền Phong, HTX Mê Linh… vẫn thường nhắc đến nhà khoa học Tạ Thu Cúc với đề tài chuyển giao kỹ thuật trồng hành tây xuất khẩu. Trước đây, thường sau khi thu hoạch, nếu người nông dân chưa kịp bán thì hành hay bị thối. Nhờ kỹ thuật mới do bà đem lại, năng suất hành tây cao hơn trước. Không những thế mà chất lượng và thời gian giữ củ hành tây được tươi lâu hơn. Hễ ai bước chân đến thăm cánh đồng hành tây sẽ thấy cả cánh đồng hành tây vàng rộm, thơm nức. Và gương mặt bà con nông dân tươi rói bên cánh đồng hứa hẹn bội thu của họ.

Từ năm 1988 đến năm 1996, bà tập trung nghiên cứu xác định liều lượng đạm vô cơ đến dư lượng Ni-tơ-rát ở hành tây, cải bắp, cà chua, dưa chuột đông, dưa chuột xuân, đậu cô ve leo và cà rốt xuân.

Người khởi xướng rau sạch.

Năm 1988, một học trò cũ đến nhờ bà phân tích giúp hàm lượng ni-tơ-rát trong rau. Nguyên nhân do hai tàu chở su hào xuất khẩu ra nước ngoài bị trả lại vì hàm lượng ni-tơ-rát cao. Thật xót xa cho công sức của người nông dân.

Sau đó, Giám đốc Công ty Rau quả Hà Nội Bùi Bài Thắng – chủ đề tài thực phẩm sạch – mời bà tham gia xây dựng tiêu chuẩn chung về rau sạch cho thành phố. Bà đề nghị nên chuyển sang đề tài rau sạch, cụ thể là tham gia xây dựng quy trình chung về kỹ thuật cho sản xuất rau sạch của các cây cà chua, cải bắp, dưa chuột bao tử, dưa hấu… Vào thời điểm này, không ít ý kiến phản đối, vì ở Việt Nam chưa có tài liệu và cũng chưa thực hiện được trên thực tế. Bà đã tiến hành thu thập, sưu tầm các loại tài liệu để có thể thuyết phục được các nhà khoa học. Chỉ đến khi có được những tài liệu chuẩn xác của nước ngoài thì đề tài của bà mới được chấp nhận.

Vào thời điểm này, Chính phủ cũng ban hành chỉ thị về nước sạch, rau sạch. Ý chí của nhà khoa học được củng cố. Bà lại lao tới các cánh đồng rau để khám phá về cây rau theo đề tài rau sạch. Trong quá trình nghiên cứu cho thấy ni-tơ-rát có hàm lượng cao trên một đơn vị diện tích không khử hết sẽ tích tụ ở bộ phận non của cây rau, tác động với amin bậc 2, bậc 3, sinh ra nitrosamin dễ gây bệnh.

Bà cùng Phó giáo sư Hoàng Anh Cung xây dựng mô hình rau sạch trên 2ha bắp cải ở Cánh Đồng Xa thuộc HTX Dịch Vọng, Từ Liêm Hà Nội. Hàng ngày bà lại lăn lộn trên đồng ruộng chẳng khác một người nông dân thực thụ. Bà con rất yêu quý bà, tin cậy ở những đề tài khoa học mới của bà. Họ đã nghe bà phá bỏ tập tục bón rau bằng phân tươi, một tập tục gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, và là nguyên nhân sinh ra nhiều bệnh tật. Cũng có những nơi bà con nông dân còn nghi ngại và cũng khó bỏ thói quen mà họ cho là đỡ tốn kém, bà vừa hướng dẫn bà con, vừa thuyết phục, đến khi thu hoạch bà con nông dân trực tiếp thấy năng suất cao và chất lượng rau được bảo đảm, họ mới phấn khởi thực hiện theo.

Với kết quả thành công bước đầu, cùng với các đề tài khác của các đồng nghiệp, Sở Khoa học – Công nghệ và Môi trường đã xác lập được quy trình sản xuất rau sạch và cây cà chua. Dự án trồng rau sạch ở Hà Nội được thực thi.

Hiện nay ở Hà Nội đã trồng hàng trăm ha rau sạch. Các địa phương khác trong cả nước như TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng… đã có những vùng trồng rau sạch xây dựng sản xuất theo từng vùng sinh thái, công nghệ hiện đại hơn. Nhưng bà và các đồng nghiệp tại Hà Nội là những người đã khởi đầu phong trào với những bước đi gian nan nhưng đầy tự hào. Những người nông dân gắn bó với đồng ruộng, với cây rau, không ai không biết về bà. Họ không quên hình ảnh một nhà khoa học nữ sớm tối có mặt cùng họ trên đồng ruộng, cùng lo lắng, chia sẻ và cùng vui mừng với họ khi vụ mùa kết quả, đạt tiêu chuẩn nghên cứu.

Hơn 30 năm gắn bó với Trường Đại học Nông nghiệp I, gắn bó với bà con nông dân, PGS-TS Tạ Thị Thu Cúc đã có trên 30 đề tài khoa học về cây rau. Nhiều đề tài đã được đánh giá cao, có tính ứng dụng, đem lại hiệu quả thiết thực.

Cống hiến cho khoa học đến cùng

Đối với nhà khoa học Tạ Thị Thu Cúc, không có phần thưởng nào lớn hơn sự đón nhận các công trình khoa học của bà vào thực tế đồng ruộng của bà con nông dân. Chính nhờ những phần thưởng vô giá đó mà cho đến nay, dù đã nghỉ hưu nhiều năm, bà vẫn say mê nghiên cứu và viết sách để phổ biến kiến thức cho sinh viên, cho bà con nông dân.

Từ sau khi nghỉ hưu, bà vẫn tham gia giảng dạy ở trường và tại các lớp học tại chức. Tham gia tập huấn cho những công nhân đi lao động nước ngoài. Tham gia các Hội đồng chấm luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ. Và biên soạn giáo trình, viết các bài nghiên cứu về rau cho Bộ Giáo dục – Đào tạo. Những lúc rảnh rỗi, bà lại đến với bà con nông dân vùng rau ngoại thành Hà Nội.

Nhớ lại những tháng ngày khó khăn nhưng đầy niềm đam mê hứng khởi với các công trình nghiên cứu trên thực tế được người dân đón nhận, bà tâm sự:

“Những lá thư của nông dân khắp mọi miền gửi đến là nguồn động viên tôi. Còn sức khoẻ, tôi sẽ cống hiến cho khoa học đến cùng”.

Thành công của bà còn có sự đóng góp thầm lặng của người bạn đời là GS-TS Trần Đình Đằng, đồng nghiệp ở Trường Đại học Nông nghiệp I, người đã tiễn bà sang Trung Quốc với lời hẹn ước thuỷ chung. Ông quê ở Đại Quang, Đại Lộc, Quảng Nam, tập kết ra Bắc năm 1964. Hơn 40 năm giảng dạy ở trường, ông đã có gần 40 đề tài nghiên cứu khoa học. Sau này, đề tài này được thực hiện ở nhiều địa phưng. Mỗi cống hiến thành công của ông hay của bà đều có sự động viên, đóng góp trí tuệ của cả hai.

Cuộc sống luôn ở phía trước! Đó là nụ cười tự tin của nhà khoa học Tạ Thị Thu Cúc khi bà nheo mắt nhìn theo đám sinh viên đang vô tư trước sân trường. Ai trong số họ sau này sẽ trở thành những nhà khoa học như những người thầy của họ? Ai trong số họ sẽ một nắng hai sương cùng người nông dân trên đồng ruộng?

Bà hy vọng. Bởi bà chính là tấm gương cho họ, hàng ngày nhắc nhở họ!

 

Võ Xuân Hà

Nguồn: vietbao.vn/Phong-su/Nguoi-phu-nu-cua-rau/20390195/265/