Năm 1954 khi Hà Nội mới được giải phóng, Khoa Nội Bệnh viện Bạch Mai thừa hưởng một “di sản” nghèo nàn trên nhiều phương diện. . Trước tình hình đó GS Đặng Văn Chung đã bắt tay vào xây dựng chương trình, đào tạo cán bộ giảng dạy mới để bắt đầu ngay khóa 1. Từ con số 0 ông đã xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy trẻ lên đến 20, 30 người: “Có tất cả 7 thế hệ trong Bộ môn, trẻ nhất là 24 tuổi, già nhất là 60. Trong số 30 cán bộ, được 10 cán bộ có trình độ giảng dạy và chuyên môn tốt”[1]
Nhiều chuyên ngành của Nội khoa đã bắt đầu được xây dựng đặc biệt là sự thành công của chuyên khoa Tim mạch, tuy về trình độ kỹ thuật lúc này vẫn còn hạn chế“Tổ A9 là tổ lao động XHCN, lá cờ đầu của ngành Y tế từ 1952, được nhiều tổ chức Y tế bạn đến tham quan, thực tập”[2]
Vào những năm 1950, GS Đặng Văn Chung đã cùng GS Tôn Thất Tùng nghiên cứu và xây dựng kế hoạch phẫu thuật tim mạch ở miền Bắc. Và ca mổ tim đầu tiên được tiến hành vào năm 1958. Tiếp thành công đó là những ca bệnh màng tim dày và thắt được điều trị thành công cũng là những trường hợp đầu tiên được công bố ở Việt Nam. Sự kiện này gây tiếng vang lớn không chỉ trong nước mà cả ở thế giới. Theo GS Chung thì phẫu thuật tim mạch hồi đó gần kịp với Trung Quốc, không kém nhiều so với trình độ của thế giới. Bên cạnh đó công tác điều tra cơ bản về các bệnh phổ biến: loét dạ dày, thấp tim, tăng huyết áp cũng được tiến hành. Kết quả những điều tra, nghiên cứu này được ông báo cáo tại Hội nghị Bộ trưởng các nước XHCN vào năm 1962. Mặc dù phương pháp và trang thiết bị lúc này còn thô sơ nhưng nước ta là nước đầu tiên phát hiện ra bệnh Goutte, bệnh Takayasu (Bệnh Takayasu là bệnh viêm ở các động mạch có kích thước lớn và vừa gây hẹp, tắc hoặc phình động mạch. Nguyên bản viết tay của GS Chung là Takayashu)– là những bệnh tưởng chừng không xẩy ra ở một xứ nóng như nước ta. Những phát hiện này ngay sau đó cũng đã được công bố trong giới Y học.
Công việc đang tiến triển thuận lợi thì, miền Bắc bắt đầu hứng chịu cuộc tiến công bắn phá của không quân Mỹ. Trường học, bệnh viện cũng là những mục tiêu bom đạn trút xuống. Trường Đại học Y và Bệnh viện Bạch Mai là hai cơ quan có mối quan hệ công tác gắn bó mật thiệt., Lúc này bệnh viện và nhà trường không thể hoạt động bình thường mà phải chấp hành triệt để chủ trương của Bộ Y tế là phân tán cán bộ. Và sự phân tán này cũng đã sinh ra một số mâu thuẫn và khó khăn. Để phục vụ cấp cứu cho thương, bệnh binh do chiến tranh, cán bộ và sinh viên đã được chia ra về 6 tỉnh. Biết bao là khó khăn, thiếu thốn ở nơi sơ tán: "Cán bộ đi các tỉnh gồm cán bộ trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, lại phải đảm bảo toàn bộ chương trình mà họ chưa quen giảng dạy, không được sự giúp đỡ của tập thể như khi ở Hà Nội. Giảng dạy môn Nội khoa cần có bệnh nhân để minh họa và để sinh viên làm quen với thực tế nhưng trừ trường hợp cấp cứu thì đa phần họ đều ngại đến bệnh viện;Các bệnh viện địa phương cũng sơ tán ít giường dành cho Nội khoa vì cần đảm bảo số giường bệnh cho cấp cứu Nội khoa. Mặt khác Nội khoa cần nhiều máy móc, phương tiện xét nghiệm để phục vụ cho chẩn đoán như Xquang, kính hiển vi…nhưng đều không có hoặc thiếu" [3]. Khắc phục phần nào tình trạng trên GS Đặng Văn Chung và các đồng nghiệp đã đưa ra những giải pháp hữu ích trong bối cảnh lúc này. Dựa trên chương trình giảng dạy đã được xây dựng có hệ thống, có trình tự từ trước, các ông đã điều chỉnh để phù hợp với thời chiến, với sự phân tán ở nhiều nơi: "Để khắc phục tình hình…chúng tôi đã mạnh dạn bỏ những phần xét nghiệm cầu kỳ, tinh vi không thể làm được nếu không có điện…Đồng thời thêm vào chương trình một số bệnh phổ biến ở các vùng mà anh em sẽ đến công tác như sinh tố B1, sốt rét, đi lỵ. Chúng tôi chú trọng giảng dạy phần cấp cứu Nội khoa vì đa số bệnh nhân được đưa dến bệnh viện là bệnh nhân cấp cứu cần giải quyết nhanh…Phần điều trị học chỉ dạy năm thứ 5 hay 6 thời bình nhưng chúng tôi đã dạy sớm hơn ở Y4"[4].
Việc phân tán rất cấp bách, cần thiết và gây ra không ít khó khăn, nhưng GS Chung vẫn luôn chú trọng đến chất lượng giảng dạy.Trước khi lên đường, cán bộ được qua một đợt bồi dưỡng về phương pháp sư phạm để họ có thể lược giản nội dung cho phù hợp với chủ trương mới. Để trang bị "cẩm nang" cho những cán bộ giảng dạy, GS Đặng Văn Chung cùng đồng nghiệp biên soạn những bài giảng cô đọng về "Triệu chứng học" và "Bệnh học minh họa" của một số bệnh thông thường. Ông ví nó giống như những bệnh án thu nhỏ, có hình vẽ, có phim xquang, các xét nghiệm đầy đủ. Đây là những tài liệu rất hữu ích trong bối cảnh chiến tranh ở nước ta lúc đó, “Những bệnh học minh họa được BS Nghiệp chụp ảnh thu nhỏ và mang phim vào B để giảng dạy và hiện nay có phương tiện chụp rộng rãi hơn, chúng tôi chụp nhiều bản để gửi cho các trường Y tế địa phương”[5] Bên cạnh việc quan tâm đến truyền thụ kiến thức cần thiết cho sinh viên, GS Chung còn chú trọng đến vấn đề nghiên cứu khoa học. Trong giai đoạn này ông và các đồng nghiệp hướng dẫn sinh viên thực hiện những đề tài đơn giản giúp sinh viên học tập tốt, nắm vững được kiến thức. Đồng tạo được niềm phấn khởi, hào hứng không chỉ với sinh viên mà nó còn giúp cho các cơ sở, địa phương có được thông tin điều tra cơ bản về bệnh tật của vùng đó. Còn với những cán bộ trẻ ông cũng liên tục bồi dưỡng, bổ túc thêm kiến thức từ Nội chung đến các đề tài chuyên khoa.
GS Đặng Văn Chung miệt mài nghiên cứu, làm việc
Là một Chủ nhiệm khoa nhưng GS Đặng Văn Chung không chỉ đạo suông mà vào cuộc thực sự để khắc phục những khó khăn, làm gương cho mọi người. Như ông tự sự: “Dạy ban ngày không được, tôi dạy vào ban đêm, dạy ở Hà Nội không được, tôi đến địa phương… Có lúc trời mưa, đêm tối tôi cũng không ngần ngại…Thiếu phương tiện, vận tải tôi đạp xe đạp đến. Biết anh em sinh viên không đọc được tài liệu nước ngoài…tôi đã cố gắng sửa chữa và cho tái bản sách Bệnh học Nội khoa và sách điều trị…Về phương pháp giảng dạy, tôi biết cán bộ trẻ còn non kém về sư phạm nên cách đây 4 năm, đã xây dựng được quy tắc cách làm 1 bài giảng, cách hướng dẫn lâm sàng, thực hành trên bệnh nhân cụ thể …nhờ đó cán bộ trẻ không lúng túng”[6] Phương pháp giảng dạy mà GS Đặng Văn Chung sử dụng trong thời kỳ đó là giảng thảo và phối giảng. Ngoài ra ông cũng khuyến khích, động viên những cán bộ biết ngoại ngữ dịch tài liệu tiếng nước ngoài và cho ấn hành báo tường chuyên môn để phục vụ cho sinh viên.
Không chỉ làm gương về độ chuyên sâu trong nghề, mà GS Chung còn chú trọng đến giáo dục tư tưởng. Vì cán bộ mới vào nghề và sinh viên đều là những người còn rất trẻ, kinh nghiệm còn hạn chế nên GS Chung luôn chú ý và làm gương từ thái độ, tác phong. Ông thể hiện sự thương cảm, quan tâm đến bệnh nhân rất rõ trong việc khám chữa bệnh, cách giải quyết các vấn đề liên quan đến bệnh nhân…. Bên cạnh việc chờ đợi cho phép thành lập Bộ môn Y học dự phòng, GS Chung đã đưa vấn đề bảo vệ sức khỏe vào chương trình học như một chương mục riêng. Ông đã xuống các nhà máy để điều tra tình hình sức khỏe của người lao động, rồi từ đó giúp các y bác sĩ ở đây có thể trực tiếp điều trị được những bệnh mãn tính do nghề nghiệp.
Trong điều trị bệnh, GS Đặng Văn Chung luôn có cách truyền đạt những phương pháp để có thể chẩn đoán phát hiện bệnh sớm. Trong 4 năm chiến tranh phá hoại, với điều kiện máy móc thiếu thốn và thô sơ, ông đã kết hợp giữa triệu chứng lâm sàng và những máy móc đơn giản sẵn có, để phát hiện được nhiều bệnh, đưa ra một số triệu chứng của một số bệnh: Hạ đường huyết do u tụy, u thương hàn, tăng huyết áp… Ông hướng dẫn cụ thể cho sinh viên cách hỏi bệnh kỹ càng đối với những bệnh nhân có dấu hiệu bệnh đã rõ ràng, như tiểu sử bệnh, triệu chứng xuất hiện ban đầu, để rồi từ đó kết hợp kinh nghiệm chuyên môn để đưa ra hướng điều trị thích hợp, hiệu quả.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ ác liệt, mọi khó khăn, thiếu thốn luôn thường trực ở mọi nơi. Trong vấn đề điều trị bệnh nhân, GS Chung đặc biệt quan tâm đến việc chống lãng phí thuốc. Ông thường xuyên nhắc nhở các y bác sĩ trong việc kê những thuốc cần thiết. Về vấn đề này khoa đã có một bản báo cáo đầy đủ để trình bày ở Sở Y tế Hà Nội, Hải Phòng. Khoa Nội do ông phụ trách đã làm gương không sử dụng lãng phí thuốc và tiết kiệm được hàng nghìn đồng mỗi tháng (thời kỳ đó, đây là số tiền không nhỏLà một thầy thuốc Tây y nhưng GS Chung cũng quan tâm đến Đông y, đặc biệt là châm cứu. Ông đã tổ chức những buổi học tập về châm cứu, đông y cho toàn Bộ môn để từ đó có sự kết hợp giữa Tây y với Đông y “Trong 2 năm liền (1965-1966) thường xuyên tôi đã đến Viện Đông Y giúp đỡ cán bộ Viện khám xét bệnh Viêm tắc động mạch và giúp đỡ nhận định về kết quả điều trị bằng phương pháp Đông y”[7]. Giáo sư Đặng Văn Chung cùng các đồng nghiệp bắt tay vào việc khôi phục lại Khoa Nội ngay khi Mỹ buộc phải ngừng bắn phá miền Bắc. Với những kinh nghiệm được thử thách trong thời kỳ chiến tranh cùng với những tiềm lực vốn có, Khoa Nội đã phát triển mạnh mẽ:“Nhiều kỹ thuật trước đây chưa làm được, nay làm một cách thông thường và vượt các bệnh viện nội khoa ở Hà Nội như soi ổ bụng, sinh thiết thận chụp động mạch. Chuyên khoa tim mạch được sự phối hợp với Bệnh viện Việt Đức đã tiến rất nhanh về thông tim chụp buồng tim….”[8]. Việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, thành lập những tổ chuyên khoa đã đi vào nề nếp, ổn định. Các Hội Nội khoa của Tổng Hội Y học, như: Hội Tim mạch, Tiêu hóa, Nội tiết, Hồi sức, Khớp, Tiết niệu đã tổ chức sinh hoạt khoa học đều đặn, từ đó thúc đẩy hoạt động khoa học kỹ thuật trong toàn Khoa.
Trong những năm chống Mỹ cứu nước tuy gặp phải nhiều khó khăn nhưng chuyên ngành Nội khoa đã vững vàng vượt qua. Những thành tích đó có được là nhờ nỗ lực của cả tập thể và trong đó không thể thiếu vai trò của người cầm lái, một đầu tàu gương mẫu – GS Đặng Văn Chung. Ghi nhận những đóng góp to lớn của ông, Nhà nước và đơn vị đã trao tặng ông những Danh hiệu cao quý: Huân chương Lao động hạng Hai, hạng Ba; Huy hiệu Bác Hồ; Chiến sỹ thi đua trong 10 năm liền; Tổ trưởng tổ lao động XHCN 5 năm từ 1964-1969;…
GS Đặng Văn Chung thực sự là một “Người thầy Nội khoa” của nền Y học Việt Nam.
____________________________
[1] Báo cáo thành tích thi đua trong 4 năm chống Mỹ cứu nước.