Sinh ra và lớn lên tại một vùng quê nghèo của Thanh Hóa nên chị sớm hiểu được những vất vả của nông dân và nguyện vọng thoát nghèo của họ. Từ sự sự thông cảm đó, chị có động lực trên bước đường nghiên cứu khoa học sau này. Sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp 2 năm 1979, chị được giữ lại làm giảng viên của trường, rồi chuyển công tác về Trung tâm nghiên cứu gia cầm – Viện Chăn nuôi.
Tiến sĩ Lê Thị Thúy
Ở cơ quan này, chị vừa theo học Cao học vừa làm Bí thư Đoàn Thanh niên vừa chủ trì đề tài nghiên cứu các giống ngan miền Bắc nhằm nâng cao năng suất thịt. Kết quả nghiên cứu này được áp dụng vào sản xuất tại các tỉnh như Hà nội, Hà Tây, Hà Bắc, Thanh Hóa… và được triển khai trên diện rộng. Từ đó, thịt ngan ngày càng được ưa chuộng, đem lại nguồn lợi đáng kể cho người nông dân. Đây cũng là đề tài bảo vệ luận án Thạc sĩ và Tiến sĩ của chị. Đề tài này được trao tặng giải thưởng “Bông lúa vàng” năm 1998, được tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp xanh Việt Nam năm 2001”.
Ngoài việc tham gia giảng dạy cho nhiều khóa sinh viên cao học, nghiên cứu sinh về kỹ thuật chăn nuôi, biên soạn tài liệu cho các lớp tập huấn, chị còn tham gia nhiều công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và chăn nuôi nông hộ nhỏ. Chị còn là chủ nhiệm nhiều dự án nghiên cứu như “Nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi lợn nông hộ tại miền núi phía Bắc”, “Nuôi giữ và phát triển giống gà Hồ tại Thuận Thành, Bắc Ninh”, “Đánh giá tiềm năng di truyền các giống dê nuôi tại Việt Nam, “Xây dựng mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn tại Phú Thọ”…
Năm 1996 – 1997, chị được cử đi đào tạo tại Nhật Bản về bảo tồn đa dạng sinh học, các phương pháp đánh giá nguồn gen vật nuôi. Tranh thủ học hỏi kiến thức từ các đồng nghiệp nước ngoài cùng với phương tiện hiện đại trong phòng thí nghiệm, chị đã tham gia chương trình “Xây dựng bản đồ gen lợn” và “Sử dụng công nghệ gen để đánh giá sự đa dạng di truyền nguồn gen động vật nuôi”. Kết quả nghiên cứu đã được các nhà khoa học Nhật bản và Quốc tế đánh giá cao, giúp các nhà khoa học Quốc tế nhận thấy sự phong phú về nguồn gen động vật bản địa tại Việt Nam. Đây là tiền đề cho việc xây dựng thành công một số dự án quốc tế về đa dạng sinh học động vật tại Việt Nam sau này.
Về nước năm 1997, chị được giao chủ trì đề tài trọng điểm cấp Bộ ”Nghiên cứu áp dụng công nghệ di truyền gen để chọn giống vật nuôi có năng suất cao”. Công nghệ gen là một lĩnh vực rất mới và khó tại Việt Nam lúc này. Chị và cộng sự đã nghiên cứu và làm chủ được kỹ thuật PCR để xác định giới tính phôi bò 7 ngày tuổi, làm nền móng cho đề tài cấp Nhà nước KC04 – 11 giúp cho công tác chọn giống bò sữa tốt, có đàn con theo giới tính mong muốn. Đề tài này đã đạt Huy chương vàng trong Hội chợ Khoa học Công nghệ tháng 10/2003.
Từ năm 2000 đến nay, chị đã chủ trì và thực hiện các nghiên cứu về gen, xác định giới tính, chọn lọc giống bằng công nghệ sinh học ở tôm càng xanh, ngựa, lợn, bò sữa và gà. Kết quả cho đến nay đã xác định được 85 đoạn gen liên quan đến kinh tế rất quan trọng: sữa, thịt, năng suất sinh sản của các giống lợn, bò, gà nuôi tại Việt Nam lần đầu tiên được xác định và chấp nhận bản quyền trên Ngân hàng gen Quóc tế NCBI.
Các đề tài nghiên cứu bảo tồn và giữ quỹ gen đã giúp giống lợn ỉ được phục hồi, cứu vãn giống gà Hồ gắn liền với tập quán văn hóa cổ truyền của đất Kinh Bắc, nghiên cứu bảo tồn Exsitu bộ Nhiễm sắc thể, AND của bò vàng, bò mèo, lợn Mường khương, gà Hồ, gà Mía…của 39 giống trong phòng thí nghiệm gen. Phương pháp này làm tăng số lượng quần thể, tránh suy thoái cận huyết trong các giống, làm lợi nhiều tỉ đồng và quan trọng là giữ lại được những nguồn gen quý, bảo tồn đa dạng sinh học giống vật nuôi Việt Nam.
Trong suốt 28 năm nghiên cứu khoa học, chị đã chủ trì và tham gia 18 đề tài cấp Nhà nước, 6 dự án hợp tác Quốc tế và 4 đề tài trọng điểm cấp Bộ v.v… Ngoài ra, chị còn tham gia đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ cho đội ngũ kế cận: Giảng dạy 17 khóa cao học, nghiên cứu sinh, 12 khóa đại học tại Đại học Tổng hợp CHLB Đức và 5 Viện, trường đại học tại Việt Nam…
Với những đóng góp to lớn đó, chị đã được nhận rất nhiều giải thưởng như Giải Kovalepskaia năm 2009, Giải thưởng Sáng tạo Công nghệ Việt Nam VIFOTEC, Huân chương Lao động hạng Ba, 2 lần được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, 4 lần được Bộ Nông nghiệp tặng Bằng khen, 3 lần được Tổng Liên đoàn LĐVN tặng bằng Lao động Sáng tạo. Huy chương vàng Hội chợ Techmark – Bộ Khoa học Công nghệ, Bằng khen của Hội LH Phụ nữ VN, Phụ nữ tiêu biểu toàn quốc 5 năm liền, và nhiều khen thưởng khác…
Khác với nhiều nhà khoa học nữ, nếu đạt được thành công trong sự nghiệp thì dễ bị thiệt thòi trong tình cảm, duyên phận, còn chị Lê Thị Thúy có thể được xem là người phụ nữ vẹn cả nhiều đường. Chồng chị là anh Hoàng Kim Giao – Cục trưởng Cục Chăn nuôi của Bộ nông nghiệp, là người đàn ông thành đạt và yêu vợ thương con. Hai đứa con gái của chị đều ngoan ngoãn giỏi giang. Cháu đầu là học sinh giỏi cấp thành phố của Thủ đô Hà Nội, đỗ thủ khoa 2 trường đại học, nhận học bổng toàn phần Đại học và Thạc sĩ tại Tokyo Nhật bản. Cháu thứ 2 cũng nhiều lần nhận giải thưởng học sinh giỏi cấp thành phố, hiện là SV năm 3 Trường ĐH danh tiếng Pensylvanya.
Theo chị Lê Thị Thúy, bài học thành công trong công việc là luôn phấn đấu không ngừng về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, cập nhật thường xuyên kiến thức của đồng nghiệp trên thế giới, gắn liền kiến thức sách vở hiện đại với thực tiễn sản xuất của nước nhà. Có như vậy mới có hướng đi đúng và sự nỗ lực say mê mới mang lại kết quả thiết thực.
Với gia đình, chị cũng tâm sự phải sắp xếp thời gian để dành sự quan tâm, chăm sóc chồng con. Có tình yêu, có niềm say mê, có lòng hy sinh sẽ giúp mình đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn thứ thách và chị đã sắp xếp thời gian hợp lý, khoa học nhất để hoàn thành cả 2 vai trò: Việc nước và việc nhà.
Hội An