Bà là tác giả cuốn sách nổi tiếng Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại. Bà đã dành cả cuộc đời nghiên cứu khoa học của mình với hơn nửa thế kỷ vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam, người có nhiều công trình nghiên cứu về DS –KHHGĐ và sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục; quyền sinh sản và quyền tình dục.
1. Nghiên cứu về dân số-KHHGĐ và sức khoẻ sinh sản
GS. Lê Thị Nhâm Tuyết được biết đến như một chuyên gia đầu ngành về nghiên cứu về phụ nữ, nghiên cứu giới ở Việt Nam, đồng thời bà cũng là nhà khoa học đã dành nhiều thời gian nghiên cứu và có nhiều công trình về DS–KHHGĐ, về sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục, quyền sinh sản và quyền tình dục. Từ năm 1990, GS. Lê Thị Nhâm Tuyết đã có những bài viết trình bày tại nhiều hội thảo về DS-KHHGĐ. Bài Giáo dục dân số và đời sống gia đình Việt Nam – khía cạnh tâm lý và văn hoá, đề cập đến cơ cấu, quy mô gia đình và tâm lý đẻ con trai, về trách nhiệm trong hành vi tình dục và sinh sản, về tục tảo hôn và có con ngay sau khi cưới, phụ nữ cô đơn và phụ nữ sinh con ngoài giá thú.
Năm 1991, dự án “Tăng cường khả năng nghiên cứu phục vụ chiến lược chăm sóc sức khoẻ ban đầu” được thực hiện tại Thái Bình, với tư liệu từ những chuyến đi điền dã, Bà đã công bố một loạt bài viết: Một mình mẹ đẻ con, Sự sinh sản của một gia đình bốn thế hệ ở xã Đông Hoàng; Nạo hút thai ở hai cộng đồng nông thôn; ..v.v.
Đáng chú ý là dự án Huy động cộng đồng tham gia vào chương trình DS-KHHGĐ ở Việt Nam, từ năm 1993-2000 tại Thái Bình. Đây là dự án do CGFED chủ trì phối hợp với Viện Karolinska (Thuỵ Điển). Các quả nghiên cứu của giáo sư cùng với các đồng nghiệp đã được đăng trên các tạp chí trong nước và quốc tế.
Dân số và sức khoẻ sinh sản là chủ đề mà Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển (CGFED) quan tâm nghiên cứu trong những năm 1990s. Dự án nghiên cứu Luật pháp và chính sách liên quan đến Sức khoẻ sinh sản và sức khoẻ tình dục, phối hợp với Trung tâm quyền SKSS (CRR), Trung tâm Châu Á- Thái Bình Dương và ARROW, 2003-2004. Và Dự án về tăng cường và bảo vệ các quyền và sức khoẻ của phụ nữ sau Cairo và Beijing. Dự án do Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương về nghiên cứu và nguồn lực của phụ nữ (ARROW) điều phối, 1999-2002.
Ngay từ năm 1991, bầ đã rất quan ngại về vấn đề loại bỏ thai nhi do siêu âm giới tính thai nhi sau khi đi điền dã ở Thái Bình. Bà cũng đã sớm quan tâm đến quyền sinh sản, quyền làm mẹ của người phụ nữ đơn thân qua bài viếtMột mình mẹ đẻ con (1991), Xin con ở An Hiệp (Vietnam Social Sciences, 1994), điều mà mãi đến năm 2010 các cơ quan truyền thông đại chúng ở nước ta mới đề cập.
Trong những năm gần đây, GS. Lê Thị Nhâm Tuyết trăn trở với SKSS của phụ nữ và trẻ em gái, các bài nghiên cứu của bà đã thể hiện điều này: Chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay (nhìn từ góc độ văn hoá sinh sản);Những vấn đề xã hội và sức khoẻ của các em gái vị thành niên; Mấy ý kiến về Giới, Sức khoẻ sinh sản và quyền sinh sản; Sức khoẻ sinh sản và quyền sinh sản của phụ nữ sau cuộc chiến tranh hoá học ở Việt Nam..v.v. Không chỉ nghiên cứu cơ bản, GS. Lê Thị Nhâm Tuyết còn thực hiện dự án can thiệp Nâng cao nhận thức cho vị thành niên về SKSS gắn với một loại hình vi phạm nghiêm trọng đến SKSS vị thành niên-Nạn buôn người. Dự án này là một phần của dự án “Bước đệm” do CARE điều hành và EC/UNFPA tài trợ trong chương trình Sáng kiến sức khoẻ vị thành niên. Dự án được tiến hành thực hiện tại Cẩm Phả, Quảng Ninh, 1999-6/2002
Vấn đề người cao tuổi cũng là một chủ đề được Gs.Lê Thị Nhâm Tuyết quan tâm. Năm 1994, bà đã phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Tây thực hiện đề tài Phụ nữ cao tuổi cô đơn ở Hà Tây, và đã công bố một vài bài viết về người già ở Việt Nam hiện nay, tiếp cận từ quan điểm giới và phân tích chính sách xã hội.
Giáo sư đã dành nhiều thời gian cho lĩnh vực SKSS, sức khoẻ tình dục và quyền sinh sản, quyền tình dục – một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở nước ta, GS. Lê Thị Nhâm Tuyết đã cùng Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển (CGFED) thực hiện nhiều dự án về lĩnh vực này. Đáng kể nhất là dự án Giới, Sức khoẻ sinh sản và sức khoẻ tình dục cho các gia đình nông thôn Việt Nam, với sự hỗ trợ của Hội KHHGĐ Đan Mạch, triển khai tại 4 tỉnh trên phạm vi cả nước từ năm 2003, được thực hiện rất thành công và đã mở rộng phạm vi và thời gian dự án đến tháng 6/2014. Cuốn sách Nâng cao nhận thức về quyền sức khoẻ sinh sản, quyền sức khoẻ tình dục và chất lượng cuộc sống (2009) do GS. chủ biên là một phần của dự án này. Trước đó, đã có một số cuốn sách khác, mà GS. là người chủ biên hoặc đồng chủ biên là Văn hoá sinh sản (1998); Một số nghiên cứu về sức khoẻ sinh sản ở Việt Nam sau Cai rô (1999). GS cũng sớm quan tâm đến việc nghiên cứu về mọi mặt đời sống của các gia đình nạn nhân chất độc da cam/dioxin, việc tổ chức thành công Hội thảo khoa học quốc tế “Nạn nhân chất độc da cam/dioxin – Những điều mong muốn” (2006) và xuất bản cuốn sách Chất độc da cam: Những tác động của vũ khí hoá học lên quyền sinh sản của phụ nữ và nam giới Việt Nam (chủ biên, Nxb Ascent, 2000) là những ví dụ tiêu biểu.
2. Nhà khoa học đầu ngành về nghiên cứu phụ nữ và nghiên cứu giới.
GS. Lê Thị Nhâm Tuyết đã chủ trì 20 đề tài nghiên cứu khoa học, các dự án hợp tác quốc tế về các lĩnh vực dân tộc học, về phụ nữ, về đặc thù giới ở Việt Nam, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục. Trong những đề tài, dự án đó, giáo sư thường quan tâm, ưu tiên tìm hiểu thân phận người phụ nữ Việt Nam, về các cộng đồng dân cư khó khăn, nghèo khổ, để tạo điều kiện hỗ trợ cộng đồng phát triển.
Với sự say mê nghiên cứu khoa học, có nhiều công trình nổi tiếng trong giới khoa học ở Việt Nam và quốc tế, GS Lê Thị Nhâm Tuyết là tác giả, chủ biên của 22 cuốn sách, và gần trăm bài viết công bố trên các tạp chí trong nước, ở các cuộc Hội thảo khoa học quốc tế. Một trong những công trình đó là cuốn sách nổi tiếng Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại (Nxb KHXH 1973, tái bản năm 1975). Đây là công trình khoa học về phụ nữ đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam được dịch và xuất bản bằng 5 thứ tiếng: Anh, Nga, Trung, Pháp và Nhật Bản. Bộ sử gồm hai tập Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam (nxb Phụ nữ,1980, 1981) được Bà biên soạn với nhiều tâm huyết, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bà Nguyễn Thị Thập, khi đó là Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Đây là bộ sách được thực hiện theo Nghị quyết số 238 ngày 2/11/1974 của Trung ương “Về tổng kết lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
GS. Lê Thị Nhâm Tuyết không ngừng tham gia các hoạt động khoa học, nghiên cứu và công bố các công trình khoa học như: cuốn sách Hình ảnh phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ 21 (nxb Thế giới, 2000, tái bản tiếng Việt và tiếng Anh năm 2005). Cuốn sách được xem như là “sự tiếp nối, tuy chưa phải là hoàn thiện của công trình Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại”, như bà tự nhận xét. Cuốn sách giới thiệu về người Phụ nữ Việt Nam trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội – văn hoá, nên bà luôn chú ý đến nhiệm vụ gửi tặng sách trong những dịp giao tiếp với bạn bè quốc tế. Năm 2005,Trường Đại học Chiengmai – Thái Lan xuất bản cuốn sách “Ảnh hưởng của chính sách công đến hạnh phúc của phụ nữ: Quá khứ, hiện tại và tương lai của phụ nữ Việt Nam”, bằng Anh và tiếng Thái Lan, mà bà cùng với một học trò là đồng tác giả.
Cuốn sách Những hủ tục bất công trong vòng đời người phụ nữ Việt Nam (2010) là sự tiếp nối những nghiên cứu trước đây về phong tục, tập quán và như một minh chứng về sự say mê tìm hiểu phong tục, tập quán mà Gs. Lê Thị Nhâm Tuyết – nhà khoa học đầu ngành nghiên cứu về phụ nữ, nghiên cứu giới ở Việt Nam – luôn theo đuổi nửa thế kỷ qua. Đặc biệt là cuốn sách Đặc thù Giới ở Việt Nam và bản sắc văn hóa dân tộc (Nhìn từ góc độ dân tộc học(2010), gồm các bài viết, báo cáo tham gia Hội thảo khoa học, với độ dày gần 1000 trang, là một công trình bề thế với những tư liệu quý về nghiên cứu dân tộc học, nghiên cứu nhân học xã hội, nghiên cứu phong tục tập quán và nghiên cứu giới.
GS. Lê Thị Nhâm Tuyết luôn tâm niệm phải truyền lại cho học trò của mình, cho những nhà nghiên cứu, những đồng nghiệp trẻ trong nước và ngoài nước, quan điểm về “Đặc thù giới ở Việt Nam”, rất phương Đông, rất Việt Nam, không thiên lệch, không khiên cưỡng, xác định được thế nào là công bằng giới, thế nào là quyền con người của phụ nữ, hiểu được giá trị gia đình, vị thế của người phụ nữ, với quan điểm về bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Trong cuộc đời hoạt động khoa học của mình, Gs. Lê Thị Nhâm Tuyết luôn quan tâm gắn nghiên cứu với đào tạo và giúp đỡ các nhà nghiên cứu trẻ trong lĩnh vực chuyên môn, nhờ sự quan tâm chỉ bảo, với tấm lòng độ lượng, vị tha của Bà mà nhiều thế hệ cán bộ trẻ đã trưởng thành, đạt được các học vị thạc sĩ, tiến sĩ, học hàm phó giáo sư, giáo sư.
Nhắc đến GS Lê Thị Nhâm Tuyết, nhiều thế hệ nghiên cứu về nhân học xã hội, nghiên cứu phụ nữ và giới ở Việt Nam và thế giới nhớ về một nhà khoa học nữ giàu nghị lực, trung thực, nghiêm túc, có nhiều ý tưởng sáng tạo, đồng thời cũng là người nhân hậu, khiêm nhường trong quan hệ với đồng nghiệp, bạn bè, tôn trọng các nhà khoa học trẻ.
Với hơn nửa thế kỷ cống hiến cho hai cuộc kháng chiến và cho khoa học, Gs. Lê Thị Nhâm Tuyết đã được Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Chiến thắng hạng Ba (1958), Huân chương Kháng chiến hạng Nhất (1984); nhiều Bằng khen, Kỷ niệm chương…
PGS.TS. Hoàng Bá Thịnh
Nguồn: gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/nha-khoa-hoc-nu-say-me-nghien-cuu-ve-dan-so-khhgd-va-suc-khoe-sinh-san