Người phụ nữ nhỏ nhẹ và lịch lãm như “phản chiếu” phần nào hình ảnh của cha mình, xúc động chia sẻ: “Sự cống hiến và hy sinh của cha tôi cho đất nước luôn là tấm gương để anh chị em tôi học tập, noi theo trong suốt cuộc đời. Niềm tự hào về cha mình giúp chúng tôi luôn đứng vững trước mọi khó khăn, thử thách của cuộc sống, để xứng đáng với tên tuổi của ông…”.
Trợ thủ ngoại giao đắc lực của Hồ Chủ tịch
Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, đặt chân đến Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mời GS. Hoàng Minh Giám tham gia Chính phủ lâm thời. Ngày 30/8/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 1 cử GS. Hoàng Minh Giám làm Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ. Ngay trong ngày hôm ấy, GS. Hoàng Minh Giám đã được cùng Bác Hồ tiếp Thiếu tá tình báo Mỹ Archimedes L.A.Patti, Trưởng phái bộ OSS (Cục Tình báo chiến lược Mỹ), bắt đầu những tháng năm dài ông luôn bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những hoạt động ngoại giao đầy khó khăn, phức tạp của đất nước. Ông đã được Bác Hồ tin cậy giao cho những nhiệm vụ đối ngoại trọng yếu.
GS. Hoàng Minh Giám đã có mặt bên Hồ Chủ tịch trong những thời khắc lịch sử trong vận mệnh dân tộc, như đàm phán với Jean Sainteny, đại biểu Chính phủ Pháp, dẫn đến ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Đặc biệt, ông còn tháp tùng Bác Hồ hội kiến với Đô đốc kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, Georges Thierry DArgenlieu ở vịnh Hạ Long, để đi đến quyết định triệu tập hội nghị trù bị Việt – Pháp tại Đà Lạt, chuẩn bị cho hội nghị chính thức ở Fontainebleau. Ông cũng là thành viên của Chính phủ trong Hội nghị Fontainebleau tại Pháp. Chiều 19/12/1946, ông chính là người chuyển bức thư của Hồ Chủ tịch đến Sainteny và bị văn phòng Sainteny khước từ, dẫn đến giới hạn không thể lùi thêm nữa và đêm đó, cuộc toàn quốc kháng chiến bùng nổ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá những cống hiến trong giai đoạn đầy khó khăn “ngoại giao phá vây” của ông là đặc biệt quan trọng. Bởi ông đã đóng vai trò to lớn trong thực hiện chủ trương “hòa để tiến” của Bác Hồ và TW Đảng, tạo thời gian hòa bình quý giá cho cuộc kháng chiến trường kỳ tiếp theo.
Một đóng góp lớn của ông mà cho đến nay, không nhiều người được biết: Vào thời khắc quan trọng của dân tộc, khi thực dân Pháp đòi Việt Nam phải đầu hàng không điều kiện, buộc chúng ta phải tiến hành kháng chiến, GS. Hoàng Minh Giám đã cùng ông Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ khi đó, kiên trì đàm phán với Pháp, để đảm bảo cho hàng nghìn người dân Hà Nội và Việt kiều thoát ra khỏi vùng chiến sự nóng bỏng một cách an toàn.
Sau ngày kháng chiến bùng nổ, ông đã cùng với Hồ Chủ tịch tiếp Paul Mus, phái viên bí mật của đại diện Cao ủy Pháp Bolaert tại thị xã Thái Nguyên tháng 5/1947. Trong cuộc gặp lịch sử này, ông là người duy nhất về phía Việt Nam được chứng kiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và GS. Hoàng Minh Giám (thứ 2 từ trái sang) trong lễ ký Hiệp định sơ bộ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp tại Hà Nội.
Trong cuộc kháng chiến 9 năm, giữa bối cảnh vô cùng khó khăn gian khổ ở chiến khu, là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, GS. Hoàng Minh Giám đã dành nhiều thời gian và công sức lo tổ chức và xây dựng bộ máy, đào tạo đội ngũ cán bộ ngoại giao nòng cốt ban đầu. Là một nhà ngoại giao lão luyện, ông đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước những chủ trương lớn trong hoạt động đối ngoại, thực hiện hành công chủ trương “phá vây”, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nước ta với Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHNC khác, mở đường cho Việt Nam vươn ra thế giới… Những hoạt động ngoại giao của ông bao giờ cũng mang dấu ấn đặc biệt, với phong cách lịch lãm. Ông có mặt ở nhiều hội nghị quốc tế lớn, đặc biệt, đã tháp tùng Hồ Chủ tịch trong nhiều chuyến đi quan trọng thăm các nước XHCN và nhiều nước khác.
Trong chiến tranh chống Mỹ, những hoạt động đối ngoại của GS. Hoàng Minh Giám cũng có sức lay động rất lớn, mang ý nghĩa cột mốc. Bài tham luận của ông trong tư cách Trưởng đoàn đại biểu trí thức Việt Nam dự “Ngày trí thức Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam” trước hơn 10.000 trí thức Pháp và nhiều trí thức Mỹ, đã có tác động sâu sắc đến các trí thức nước ngoài, khiến đại danh họa Picasso bày tỏ: “Tôi khâm phục lòng dũng cảm phi thường của nhân dân Việt Nam. Những việc họ làm để chiến thắng, thật không ai có thể tưởng tượng nổi”. Nhà triết học Jean Paul Sartre cũng chia sẻ: “Không thể có một nền hòa bình nào khác ngoài nền hòa bình do chiến thắng của nhân dân Việt Nam đem lại…”.
Coi trọng văn hóa truyền thống dân tộc
Từ năm 1954 cho đến 1976, GS. Hoàng Minh Giám đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền (sau là Bộ Văn hóa và nay là Bộ VHTT&DL). Trong hơn 2 thập niên đó, ông đã chủ trì để xây dựng Bộ Văn hóa một cách vững chắc. Sinh thời, nhà thơ Huy Cận, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa thời đó, kể lại: GS. Hoàng Minh Giám đặc biệt quan tâm chăm lo bảo vệ di sản văn hóa của dân tộc, nhờ đó, nhiều di sản có giá trị đã được gìn giữ đến hôm nay như ngôi tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc), khu di tích Vĩnh Lăng (Thanh Hóa). Tâm đắc với vấn đề bảo vệ văn hóa dân tộc, ông là người có công lớn trong việc chú tâm phục hồi các loại hình nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, để hôm nay, việc hội nhập sâu vào quốc tế đã càng chứng minh tư tưởng đúng đắn của ông.
Một đóng góp quan trọng của GS. Hoàng Minh Giám trong giai đoạn này, phải kể đến những hệ thống tổ chức, những thiết chế văn hóa được xây dựng: bảo tàng, thư viện, trường đại học, hệ thống điện ảnh đã được ông đặc biệt quan tâm từ khi đó. Những thành công của nền điện ảnh cách mạng cho đến nay vẫn còn được ghi nhận, bằng hàng loạt bộ phim kinh điển được nhận các giải thưởng lớn tại các liên hoan phim quốc tế và trong nước, như “Chim vành khuyên”, “Chị Tư Hậu”, “Vợ chồng A phủ”, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”, “Em bé Hà Nội”, “Nổi gió”… Đất nước còn muôn vàn gian khó, Bộ trưởng Hoàng Minh Giám đã chú tâm tạo nền móng cho nghệ thuật bác học phát triển như nhạc giao hưởng, múa ba-lê, bên cạnh việc vận động sáng tác ca khúc phục vụ kịp thời đời sống tinh thần các tầng lớp nhân dân.
Trước khi hoạt động cách mạng, GS. Hoàng Minh Giám còn là một nhà giáo mẫu mực và tận tụy. Năm 1935, ông đã cùng nhiều trí thức yêu nước và tiến bộ như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Phạm Vũ Ninh, mở Trường Tư thục Thăng Long và ông là hiệu trưởng. Ông đã là thầy học của nhiều trí thức trong và ngoài nước. Ông cũng từng dạy học Quốc trưởng Campuchia, Norodom Shihanouk và Hoàng thân vẫn thường nhắc đến người thầy giáo cũ với lòng kính trọng, biết ơn. Ông còn có nhiều hoạt động để động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ trí thức phát triển và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ và dựng xây Tổ quốc.
GS. Hoàng Minh Giám đã cùng đất nước đi trọn chặng đường lịch sử. Ở bất kỳ cương vị nào, ông cũng tận lực, tận tâm phụng sự Tổ quốc và đồng bào. Khi ông ra đi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thầy giáo dạy sử-địa ở Trường Thăng Long xưa, đã nói về ông với tình cảm chân thành: “Với tôi, anh là người bạn đồng nghiệp thân thiết, người bạn chiến đấu trung thành và thủy chung”
Thanh Hằng
Nguồn:cand.com.vn/vi-vn/vanhoa/2013/11/213756.cand