Được biết Thầy và là học trò của Thầy từ thời tuổi trẻ, không hiểu vì sao ngẫu nhiên khi về hưu ở tuổi ngoài sáu mươi (1982), tôi lại có diễm phúc cùng Thầy sống gần nhau, cùng sinh hoạt và vui tuổi già trong một tổ chức vô cùng thú vị, Câu lạc bộ du lịch người cao tuổi do Ông Vũ Đức Thận, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng về hưu, tổ chức và làm chủ tịch. Do đó, tôi và người Thầy thân yêu của mình có nhiều dịp cùng nhau đi du lịch khắp nơi trong cả nước, từ Miền Bắc, qua Miền Trung, đến Miền Nam, vào tận điểm tận cùng của đất nước, Mũi Cà Mâu. Qua những chuyến đi này, qua những ngày đêm cùng ăn cùng ở với nhau, Thầy trò chúng tôi càng có nhiều cơ hội cùng nhau chuyện trò thân mật, hiểu rõ thêm về cuộc đời của nhau, tình nghĩa Thầy trò đã già nửa thế kỷ ngày càng thắm thiết.
Nay tuổi đã cao, cuộc đời của bản thân tôi đã qua nhiều trải nghiệm, tưởng nhớ tới Thầy Nguyễn Mạnh Tường sau một trăm năm ngày sinh của Thầy, tôi đã suy ngẫm rất nhiều về cuộc đời vô cùng phong phú của Thầy, với nhiều quãng đời vinh quang tột bực, mà cũng lắm lúc thăng trầm, thử thách gay go, nhưng Thầy Nguyễn Mạnh Tường đều đã dũng cảm vượt qua, và cho đến tận ngày cuối đời, Thầy vẫn là Nguyễn Mạnh Tường ngày xưa, một lòng trung hiếu với dân với nước, với con đường đi lên của đất nước Việt Nam ngày càng vinh quang, phồn thịnh.
Thân thế và sự nghiệp của Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, trên già nửa thế kỷ qua là một đề tài rất rộng lớn, đã từng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, nhà báo, nhà sử học, những người suy nghĩ về nền giáo dục nước nhà hiện nay. Cũng vì vậy mà từ trước đến nay, đã có rất nhiều bài báo, bài nghiên cứu nói về nhiều khía cạnh độc đáo của cuộc đời thành đạt của Nguyễn Mạnh Tường, một người học trò đặc biệt xuất sắc, nổi danh một thời, một trong những nhà giáo tài ba, lỗi lạc bậc nhất trong thế kỷ hai mươi ở nước ta, đã có công đào tạo giáo dục bao thế hệ học trò thành đạt, góp phần xây dựng nên một lực lượng khá hùng hậu lớp lớp thanh niên có trình độ văn hoá tham gia tích cực vào cuộc Cách mạng tháng Tám, 1945 lịch sử, vào hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc Việt Nam, hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc Việt Nam, mở đầu thành công sự nghiệp xây dựng và phát triển một nước Việt Nam mới, trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá nghệ thuật, khoa học kỹ thuật và xã hội. Nội dung tham luận của nhiều vị đại biểu tham dự cuộc hội thảo kỷ niệm hôm nay đã nói lên nhiều mặt phong phú cuộc đời của Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường.
Ý kiến trình bày hôm nay của tôi về Thầy Nguyễn Mạnh Tường chỉ xin tập trung vào một khía cạnh của cuộc đời Thầy Tường đã gây một ấn tượng sâu sắc trong cảm tưởng và suy ngẫm của tôi từ lâu, mà tôi cho là độc đáo, hiếm có, rất đáng nhấn mạnh khi nói về phẩm chất đạo đức của Thầy Tường: Đó là nhân cách của Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời của Thầy Tường từ tuổi thiếu niên cho mãi tới sau này, đến tận cuối đời.
Từ trước đến nay, qua lịch sử văn hoá Đông Tây kim cổ, cái quý nhất của một đời người là tài năng, sự đóng góp cho xã hội và nhân cách của người đó trong suốt cuộc đời. Nhưng tài năng sự nghiệp, đối với ai cũng vậy, rồi cũng đi vào dĩ vãng, điều mà người đời sau, còn nhớ mãi, còn nhắc tới để noi gương, chính là nhân cách của người đó.
Hiểu biết và suy ngẫm kỹ về cuộc đời Thầy Nguyễn Mạnh Tường, theo tôi, điều nổi bật và làm tôi thấm thía nhất là nhân cách của Thầy, thể hiện rất sớm từ thuở thiếu thời và tồn tại mãi sau này cho đến mãi trước ngày Thầy vĩnh biệt chúng ta.
1. Thời niên thiếu, khi còn là học trò Trường Trung học Pháp, Albert Sarraut ở Hà Nội, cậu học sinh Nguyễn Mạnh Tường đã sớm tỏ ra rất có bản lĩnh, với một ý thức dân tộc khá sâu sắc, quyết tâm học thật giỏi, tỏ rõ học sinh Việt Nam không kém gì học sinh Pháp, có thể có môn học còn xuất sắc hơn học sinh Pháp, mà người Pháp không thể thành kiến coi thường “người bản xứ”! Xuất phát từ bản chất chế độ thuộc địa, từ chính sách phân biệt chủng tộc, quy chế học hành trong trường có những rào cản hạn chế học sinh người Việt trong việc tham gia học môn văn học, ngôn ngữ “Hy-La” (Hy lạp, La Mã), học sinh Nguyễn Mạnh Tường đã tìm mọi cách học thêm và ra sức tự học, đạt những kết quả không ngờ trong môn học này, làm cho thầy trò người Pháp phải công nhận và thán phục! Tuyệt đối không cần cầu cạnh, xu nịnh ai để có thể có cơ hội đi du học nước ngoài sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh Nguyễn Mạnh Tường chỉ bằng kết quả học tập nổi bật của mình, đã buộc nhà cầm quyền Pháp phải cấp học bổng cho sang Pháp học lên Đại học.
2. Những năm tháng du học ở Phápcàng tỏ rõ tài năng, cốt cách của người sinh viên lỗi lạc Nguyễn Mạnh Tường sống xa quê hương, một mình ra sức tự rèn luyện, học tập trên đất nước người. Được nhận vào học tại Trường Đại học Montpellier ở Miền Nam nước Pháp, một trong những trường nổi tiếng của Pháp, sinh viên Nguyễn Mạnh Tường ngay từ những năm đầu mới đặt chân tới nước Pháp đã thể hiện rõ nghị lực phi thường. Chỉ sau một thời gian rất ngắn, người sinh viên Việt Nam ưu tú này đã liên tiếp đạt xong hai chứng chỉ Cử nhân Luật học và Cử nhân Văn học, một điều kiện bắt buộc để có thể học tiếp trên Đại học.
Xuất dương du học với ý thức và lòng tự hào dân tộc sâu sắc, lòng yêu nước nồng nàn, người thanh niên đất Việt, vốn gốc Hà Nội, đã tập trung sức lực, thời gian, lao vào nghiên cứu, học tập để vượt thời gian, giành cho được những học vị cao nhất của ngành Đại học Pháp. Ngay từ những ngày đầu mới tới Pháp, trực tiếp chứng kiến và tiếp xúc với cảnh phồn hoa đô hội của một nước Pháp tư bản phát triển lâu đời, với biết bao thú vui chơi, sinh hoạt hấp dẫn đối với tuổi trẻ, dễ làm hư hỏng con người, sinh viên Nguyễn Mạnh Tường đã một lần nữa tự khẳng định mình, quyết tâm giữ trọn phẩm chất và nhân cách con người Việt Nam hiếu học, tự trọng, xa hẳn các cảnh vui chơi đàng điếm, chỉ biết tập trung mọi cố gắng vào việc tập luyện, tu dưỡng sức khoẻ để đảm bảo việc nghiên cứu học tập thành đạt.
Kết quả nghị lực phi thường đó đã nhanh chóng đưa lại vinh quang tuyệt đỉnh cho người thanh niên Hà Nội có chí khí; chỉ sau một thời gian ngắn kỷ lục, tập trung tìm tòi nghiên cứu, người con Việt Nam lỗi lạc Nguyễn Mạnh Tường ở tuổi 23, đã liên tiếp hoàn thành xuất sắc hai bằng Tiến sĩ Luật học và Tiến sĩ Văn khoa, làm chấn động dư luận báo chí và giới học giả, trí thức Pháp, coi đó là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử ngành đại học Pháp, nhất là đối với người nước ngoài du học ở Pháp.
3. Về nước làm việc sau khi du học ở Pháp
Đây cũng là một giai đoạn thử thách lớn đối với nhân phẩm và bản lĩnh Nguyễn Mạnh Tường.
Những năm sống và học tập ở Pháp, thuận lợi có nhiều giúp cho việc học hành thành đạt của ông, nhưng nếu thiếu một quyết tâm tự tu dưỡng rèn luyện phẩm chất hàng ngày, tuổi thanh niên của Nguyễn Mạnh Tường cũng khó thoát khỏi sự cám dỗ của môi trường sống đầy cạm bẫy. Phải nói sự phấn đấu giữ gìn nhân cách của ông ở tuổi đôi mươi cũng đã vô cùng khó khăn gian khổ, suốt thời gian sống ở nơi đất khách quê người, phải tự mình làm chủ mình là chính.
Trở về Việt Nam còn sống dưới sự thống trị của thực dân Pháp, ánh hào quang chói lọi của vị tân khoa với hai bằng Tiến sĩ cũng không tránh khỏi chính sách chèn ép, phân biệt đối xử của chế độ thực dân. Lại bắt đầu một giai đoạn mới ông phải đương đầu với những thử thách mới, gay go phức tạp hơn giai đoạn trước nhiều. Trong việc xem xét bố trí nghề nghiệp cho Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, nhà cầm quyền Pháp đã không sử dụng ông ở những vị trí tương xứng với học vị và tài năng trình độ thực sự của ông. Với ý đồ nham hiểm, toàn quyền Pháp đã định đưa ông vào bộ máy hành chính làm tay sai cao cấp cho họ trong công cuộc thống trị nhân dân Việt Nam. Trước thái độ cường quyền của thực dân Pháp, ông đã không chút nao núng khuất phục, thẳng thắn từ chối mọi hứa hẹn quyến rũ và nói rõ ông sẵn sàng về dạy học ở Trường Trung học Bảo hộ (Lycde du Protectorat) ở Hà Nội, ta thường gọi là Trường Bưởi, để giáo dục đào tạo thanh niên. Sau đó, bên cạnh việc dạy học, ông mở thêm Phòng Luật sư riêng để tham gia công tác bào chữa ở toà án, nhằm bảo vệ công lý, phát huy sở trường luật học của ông. Và từ đó về sau, ông kiên quyết chỉ làm hai nghề đó suốt đời; làm giáo sư và luật sư.
Chính những năm tháng giảng dạy văn học Pháp và văn học Châu Âu ở Trường Bưởi, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã tỏ rõ trình độ uyên bác của ông về nền văn hóa và văn học Châu Âu mà ông đã tiếp thu được. Ông đã hết sức nhiệt tình muốn đem những kiến thức mới truyền thụ cho lớp học trò hiếu học như chúng tôi lúc bấy giờ. Giảng dạy trực tiếp chúng tôi bằng Pháp văn, với trình độ điêu luyện về ngôn ngữ Pháp, cộng với tài thuyết trình hùng biện vốn có, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã thực sự chinh phục và thu hút chúng tôi say sưa nghe giảng. Cũng chính qua nội dung những bài giảng dạy về lịch sử Văn học Pháp và Châu Âu, về những tác phẩm nổi tiếng của các nhà văn, nhà thơ, nhà triết học cổ điển Pháp, mà chúng tôi đã được thấm nhuần những tư tưởng tiến bộ của Montaigne, Jean Jacques Rousseau, Montesquier, Voltaire, Corneille, Molière… Với những nội dung giảng dạy hấp dẫn đó, Thầy Nguyễn Mạnh Tường đã giáo dục chúng tôi một cách sâu sắc về đạo lý làm người, về cách đối nhân xử thế, về tư duy khoa học hiện đại, mà mục tiêu cao cả là rèn luyện cho chúng tôi một nhân cách vững vàng. Ngoài ảnh hưởng phẩm chất gương mẫu của Thầy, chúng tôi còn được tiếp thu thêm sự giáo dục mẫu mực của các giáo sư đương thời nổi tiếng khác như Dương Quảng Hàm, Hoàng Xuân Hãn, Ngụy Như Kontum, Nguyễn Văn Huyên… Cho nên ngoài việc được trang bị đầy đủ các kiến thức cơ bản để bước vào đời, chúng tôi còn được tất cả các Thầy giáo nói trên luôn luôn giáo dục và khơi dậy trong chúng tôi lòng yêu nước nồng nàn, ý thức dân tộc sâu sắc. Vì vậy, những năm sau này, vừa lúc chúng tôi tốt nghiệp ra trường, phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương bùng lên và dần dần lan rộng, không lấy gì làm lạ là hầu hết chúng tôi đã sẵn sàng hưởng ứng phong trào, lần lượt tham gia vào Mặt trận Việt Minh để chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám 1945 giành thắng lợi.
4. Thời kỳ quân phát-xít Nhật vào Đông Dươnglàm đảo chính lật đổ chính quyền Pháp (9/3/1945), hòng hay thế Pháp kế tục thống trị Việt Nam. Với danh nghĩa lừa bịp giúp Việt Nam giành lại độc lập, quân chiếm đóng Nhật Bản đã dựng lên một chính phủ giả tạo với nguyên nhà báo Trần Trọng Kim đứng đầu… Chính phủ này với ảo tưởng có thể làm gì có lợi cho dân, cố gắng tập hợp một số trí thức yêu nước tham gia nội các và ngỏ ý mời Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cộng tác. Ông đã sáng suốt nhận thức rõ tình hình, và nhất là với bản lĩnh và nhân cách vững vàng, ông đã kiên quyết khước từ lời mời của Chính phủ Trần Trọng Kim, tiếp tục dạy học ở Trường Bưởi mang tên mới là Trường Chu Văn An và tiếp tục hành nghề luật sư. Một lần nữa, với nhân cách vững vàng sẵn có, Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã vượt qua thử thách.
5. Đại chiến Thế giới thứ 2 kết thúc,với chiến thắng của phe đồng minh, buộc Quân đội phát-xít Nhật phải đầu hàng không điều kiện, Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam kịp thời nắm được thời cơ, giành được thắng lợi rực rỡ, thành lập Chính quyền Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Với kết quả Tổng tuyển cử đầu tiên của chế độ mới, nước ta có một Chính phủ mới chính thức do Quốc hội khoá 1 (6 – 1 – 1946) cử ra, thể hiện rõ chính sách đại đoàn kết dân tộc, liên hiệp đủ đại biểu các tầng lớp nhân dân, các chính đảng, các tôn giáo.
Xuất phát từ chủ trương và chính sách tôn trọng nhân tài của Đảng và Nhà nước ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ngỏ ý muốn mời Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường tham gia giữ một trọng trách gì đó trong Chính quyền Cách mạng. Nhưng vốn từ xưa là người không ham tiền tài, danh vọng, quyền lực, Giáo sư lại một lần nữa tỏ rõ quan điểm của mình, cảm ơn sự tín nhiệm của Đảng, Nhà nước và Bác Hồ và xin phép tiếp tục hành nghề giáo sư và luật sư như cũ, và sẵn sàng đem hết sức mình hoàn thành tốt bất kể một công việc gì cụ thể thuộc phạm vi khả năng và sở trường của ông mà Đảng và Nhà nước tin cậy giao phó.
Quân đội thực dân Pháp ngày càng mở rộng chiến tranh ở Miền Nam, trên Miền Bắc vi phạm Hiệp định mồng 6 tháng 3 năm 1946 đã ký giữa Pháp và ta, quân đội Pháp cũng hung hăng quấy rối, bộc lộ rõ mưu đồ xâm lược, muốn trở lại thống trị nước ta một lần nữa. Để nêu rõ thiện chí hoà bình của Chính phủ ta, ta và Pháp lại thoả thuận mở cuộc đàm phán ở Đà Lạt. Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã được Chính phủ ta cử tham gia là một thành viên chính thức của Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tham dự Hội nghị này. Tại Hội nghị Đà Lạt, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường với tài hùng biện sẵn có đã nói lên lập trường chính nghĩa của Chính phủ ta, phê phán thẳng thắn thái độ trịch thượng và ý đồ đen tối của phía Pháp. Thấy rõ thủ đoạn xấu xa của Phái đoàn Pháp âm mưu phân hoá chia rẽ Phái đoàn ta, giở thủ đoạn tranh thủ lôi kéo Luật sư Nguyễn Mạnh Tường theo họ, Luật sư một lòng một dạ chung thủy với Tổ quốc, giữ vững nhân cách người công dân Việt Nam yêu nước, làm tròn trách nhiệm đại diện cho Chính quyền cách mạng, không để sa vào cạm bẫy của bọn Thực dân, bảo vệ vững chắc đường lối, chủ trương, chính sách của Chính phủ, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng và Bác Hồ.
6. Sau Hội nghị trù bị Đà Lạt, kiên trì nêu cao ngọn cờ hoà bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận lời mời của Chính phủ Pháp và cử một phái đoàn sang Pháp tiếp tục đàm phán với phía Pháp ở Hội nghị Fontainebleau, đi đến ký kết bản Tạm ước Fontainebleau buộc Pháp phải cam kết thừa nhận và tôn trọng quyền độc lập tự do của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Song chính quyền thực dân Pháp vẫn tiếp tục ngoan cố, phá hoại mọi sự cam kết, xúc tiến mở rộng chiến tranh xâm lược, buộc Chính phủ ta và nhân dân ta phát động kháng chiến chống Pháp trong toàn quốc và toàn dân ta đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ từ ngày 19 tháng 12 năm 1946.
Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường với gia đình vợ con, đã kiên quyết bỏ lại tất cả tài sản nhà cửa ở Thủ đô Hà Nội, cùng nhân dân cả nước đi vào kháng chiến. Bất kể mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, trong cuộc sống nơi đồng quê, miền núi, ông lại tiếp tục cùng học trò và nhà trường đi sơ tán và tiếp tục hành nghề luật sư, lang thang từ vùng này sang vùng khác tham dự các vụ xử án để bào chữa cho các phạm nhân.
Và cứ như vậy, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường và gia đình đã cùng nhân dân cả nước kiên trì theo đuổi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi cuối cùng, chỉ trở về Thủ đô hoàn toàn giải phóng tháng 10/ 1954, sau đại thắng của quân dân ta ở Điện Biên Phủ và thắng lợi ngoại giao của ta ở Hội nghị quốc tế Giơ-ne-vơ (Genève) Thụy Sĩ, chấm dứt chiến tranh tái xâm lược Đông Dương của Thực dân Pháp.
7. Một sự kiện lịch sửvà cũng là một kỷ niệm kháng chiếnkhó quên đối với Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường là cuộc Bác Hồ gặp mặt và nói chuyện riêng thân mật với Giáo sư năm 1952 ở Chiến khu Việt Bắc. Qua cuộc gặp mặt Bác Hồ đặc biệt này, ông cũng bộc lộ rõ nhân cách.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đang công tác ở Liên khu III[1]thì được mời lên Việt Bắc, dự Hội nghị các Anh hùng, Chiến sĩ Thi đua toàn quốc lần thứ nhất, tổ chức tại An Toàn Khu. Khi Hội nghị này kết thúc, Bác Hồ đã cho mời gặp mặt riêng cá nhân Giáo sư Tường. Trong một không khí hết sức cởi mở thân mật, Bác Hồ đã chủ động đặt vấn đề hỏi Giáo sư Tường như sau: Sau khi Hội nghị Anh hùng Chiến sĩ Thi đua toàn quốc, Giáo sư có nhận xét và cảm tưởng gì về Hội nghị này ?
Giáo sư đã mạnh dạn, thẳng thắn và chân thành trả lời Bác với nội dung đại ý như sau:
– Hội nghị này đã gây một ấn tượng sâu sắc trong tình cảm và suy nghĩ của cháu. Cháu đã khám phá ra và thấy rõ nhiều điều mới lạ từ trước cháu chưa được biết.
– Những chiến công và thành tích của các anh hùng, chiến sĩ thi đua thật to lớn, kỳ lạ, ngoài sức tưởng tượng của cháu.
– Mà những người làm nên những chiến công và thành tích đáng khâm phục như vậy lại hầu hết là nguồn gốc nông dân, lớp người mà trước đây do thiếu hiểu biết cháu rất coi thường, cho là kém văn hoá, không biết gì.
– Bây giờ cháu mới thấy được họ thật sự yêu nước, mà với tinh thần và ý thức yêu nước sâu sắc đó, họ đã có đủ khả năng khắc phục mọi khó khăn, gian nan nguy hiểm, và có đủ mọi sáng kiến, tìm tòi để lập nên được nhiều chiến công hiển hách, nhiều thành tích công tác, sản xuất rực rỡ.
– Cháu xin thú thật với Bác, vốn xưa chỉ ở thành thị, sau này học hành đi Đông đi Tây, hiểu biết khá nhiều, nhưng cháu thực sự không hiểu gì về nông thôn, chả biết gì về nông dân, về người lao động chân tay, mà cháu cho là thiếu văn hoá, kém hiểu biết.
– Bây giờ cháu mới thực sự giác ngộ và hiểu phần nào về người nông dân nước ta, mới thấy rõ đấy là một lực lượng cách mạng lớn, một lực lượng nòng cốt, bảo đảm đưa kháng chiến đến thắng lợi.
– Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Bác, cháu cũng như mọi người, bỏ hết của cải tài sản để đi kháng chiến, nhưng thú thật với Bác, là hăng hái từ bỏ Thủ đô ra đi, nhưng cháu không tin tưởng là kháng chiến sẽ thắng lợi. Cháu cho rằng mình nghèo và yếu như vậy, thắng làm sao nổi quân đội Pháp hùng mạnh với bao vũ khí tối tân.
– Bây giờ thì cháu tin tưởng sau cùng mình sẽ chiến thắng. Cháu càng tin tưởng ở sự lãnh đạo của Bác và của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tài tình huy động được toàn dân một lòng đứng lên kháng chiến, trong đó có đông đảo lực lượng cơ bản nông dân và công nhân.
Bác Hồ không nói gì, chăm chú lắng nghe ông Tường tâm sự, ngụ ý Bác thừa nhận thái độ chân thực và thẳng thắn, thực thà của Giáo sư Tường. Cuối cùng, Bác lại hỏi ý kiến Giáo sư có nhận xét gì về sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy nhà nước hiện nay, nhất là có mặt nào chưa tốt.
Đây lại là một dịp thử thách nhân cách của Giáo sư Tường. Ông đã tỏ ra rất khiêm tốn, nhưng rất chân thành, thẳng thắn, nói lên suy nghĩ đúng đắn của mình, không chút e ngại, dè dặt, sợ sệt, nể nang, lại càng không có tính chất xu nịnh đối với cấp trên. Đại ý, ông nói lên một số điều cơ bản, sau khi xin phép được nói thật một số nhận xét riêng của mình.
– Sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu, không có gì còn phải tranh luận. Trước những thành tích to lớn đã đạt được, ai cũng phải thừa nhận sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng từ trước tới nay.
– Nhưng cho đến nay, hiện vẫn còn một sự thật chưa rõ ràng: Có hiện tượng chồng chéo dẫm chân lên nhau giữa Đảng lãnh đạo và nhà nước quản lý, làm hạn chế vai trò chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của Nhà nước, đôi khi có những biểu hiện lấn át, thiếu dân chủ của Đảng. Cần phân biệt và quy định thật rõ phạm vi trách nhiệm, quyền hạn và nội dung lãnh đạo của Đảng và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước nói chung và của từng cơ cấu thành phần của bộ máy Nhà nước.
– Hiện nay, trong quy chế bộ máy Nhà nước của ta, chưa thấy rõ nguyên tắc “tam quyền phân lập”: Lập pháp, hành pháp và Tư pháp. Cần chấm dứt lại để từng bộ phận có đủ thẩm quyền, chủ động sáng tạo trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình.
Theo như trong Hồi ký ông đã mô tả rõ, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường thuật lại thái độ Bác Hồ bình tĩnh lắng nghe ông nói, mắt nhìn ra xa, tủm tỉm mỉm cười!
8. Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, trên Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng ta chủ trương mở rộng phong trào cải cách ruộng đất, nhằm giải phóng hoàn toàn cho giai cấp nông dân.
Chủ trương, chính sách là đúng đắn, mục tiêu là cao cả, nhưng biện pháp thực hiện sao chép máy móc của nước ngoài, càng ngày càng lộ rõ nhiều hành động sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của nông thôn Việt Nam, làm cho nhiều gia đình tan hoang điêu đứng, mặc dầu đã tham gia kháng chiến tích cực, đóng góp nhiều công của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng và Bác Hồ đã sớm nhận ra điều đó, công khai thừa nhận những sai lầm đã mắc phải và kịp thời chấm dứt những việc làm phi lý.
Để làm rõ đúng sai thêm trong sự kiện này, Mặt trận Tổ quốc Trung ương đã họp Hội nghị Mặt trận để trao đổi làm sáng tỏ thêm vấn đề. Trong dịp này, Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường với tư cách là một uỷ viên trung ương của Mặt trận được mời phát biểu ý kiến. Là một trí thức yêu nước, một luật gia có tài năng, rất trọng thị sự lãnh đạo của Đảng, ông đã mạnh dạn và thẳng thắn phát biểu công khai trước hội nghị ý kiến chân thành của mình, và đứng trên quan điểm pháp luật vững vàng, ông đã phân tích kỹ những khía cạnh sai lầm đã mắc phải trong cải cách ruộng đất.
Tiếc rằng, ít lâu sau, việc làm công khai, chính đáng và hợp pháp của ông, những ý kiến hợp tình hợp lý của ông ở Mặt trận Tổ quốc Trung ương đã bị kẻ xấu trong bọn người thù địch lợi dụng khai thác, xuyên tạc phản tuyên truyền, gây một sự hiểu lầm lớn làm tổn thương nặng đến thanh danh và công tác của ông. Ông đã phải nghỉ hẳn mọi công việc mà trước đây Đảng và Nhà nước tín nhiệm giao phó. Hàng chục năm sống trong cảnh ưu phiền này, ông đã kiên trì nhẫn nhục chịu đựng và vẫn giữ một thái độ đúng đắn đối với Đảng và Nhà nước, không có một cử chỉ hành động gì trái với lợi ích của Tổ quốc. Ông đã sống một cuộc sống riêng tư lành mạnh, tập trung thì giờ chơi thể thao rèn luyện thân thể, và hằng ngày trong phòng riêng ở nhà tư phố Tăng Bạt Hổ, Hà Nội, ông đầu tư thì giờ và suy nghĩ vào việc đọc sách, nghiên cứu, tiếp tục khai thác vốn kiến thức rộng lớn đã tích luỹ suốt cuộc đời để sáng tác thêm một số tác phẩm văn học và nhất là về vấn đề giáo dục con người, huy vọng có thể truyền lại giúp ích cho đất nước.
9. Năm 1989, theo lời mời của người thân trong họ hàng và của học sinh cũ của ông đang sinh sống trên đất Pháp, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã được Chính phủ ta cho phép sang chơi bên Pháp một thời gian ngắn. Thăm lại đất nước ông đã qua du học thời tuổi trẻ, ông rất sung sướng được gặp lại ở đây một số bạn bè quen biết cũ, một số họ hàng thân thiết lâu ngày chưa gặp, một số học sinh cũ từ thời Trường Bưởi vẫn nhớ tới Thầy. Ông cũng rất vui mừng được thăm lại trường xưa, nơi ông đã nhiều năm lưu học và đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên. Giới báo chí Pháp, đài phát thanh truyền hình Pháp đã từng biết danh tiếng của ông, biết tin ông sang thăm lại nước Pháp, đã tìm mọi cách tiếp cận với ông, yêu cầu trả lời phỏng vấn và viết bài cho báo chí và các cơ quan truyền thông của họ. Hiểu rõ động cơ không tốt của một số người trong họ muốn lợi dụng cơ hội và khai thác tiếng nói của ông để bêu xấu, xuyên tạc chế độ ta, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã khéo léo và lịch sự từ chối mọi đề nghị và yêu cầu của họ, không chịu để mắc mưu những ý đồ xấu. Cử chỉ và thái độ đúng đắn, chung thủy đối với đất nước, quê hương của ông làm cho ai biết tin cũng hết lời ca ngợi.
Theo cách nói và quan điểm Nho học của các cụ ta ngày xưa, Giáo sư, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường xứng đáng được tôn vinh là “Người Quân tử”. Mặc dầu quá trình học hành thành đạt của ông được ảnh hưởng nhiều mặt tốt của nền văn hoá Phương Tây, trong cách sống và đối nhân xử thế, ông vẫn giữ được rõ phong cách truyền thống Văn hoá Việt Nam, bao dung, thân ái với mọi người, không để tâm hờn giận, oán trách ai.
Cũng nhờ cách sống như vậy, ông đã sống những ngày tuổi già rất thanh thản, thoải mái. Những ngày tháng cùng bạn bè đi du lịch khắp nơi, ông tỏ rõ thái độ gần gũi, thân ái với mọi người và được mọi người ai cũng tôn trọng kính mến ông. Và càng về sau này, càng gần gũi ông, mọi người quen biết ông đều hiểu rõ và cảm phục nhân cách của ông.
Đảng và Nhà nước sau này cũng đã dành cho ông những tình cảm quý mến chân thành, thừa nhận rõ ràng công sức suốt đời của ông đã đóng góp cho đất nước trong sự nghiệp “trồng người”.
Nhân cách Nguyễn Mạnh Tường rất xứng đáng để các thế hệ trẻ ngày nay noi gương học tập và làm theo, nhất là trong xã hội ta hiện nay, đa số mọi người giữ gìn được phẩm chất đạo đức tốt, nhưng cũng không ít người xấu, vì hám danh lợi, quyền lực, của cải, đã có nhiều hành động làm mất nhân cách.
Nguyễn Bá Bảo
[1]Chính xác là GS Nguyễn Mạnh Tường đang giảng dạy tại Trường Dự bị Đại học Liên khu IV mới khai giảng (KMS).