Nhìn lại một chặng đường nghiên cứu

 Khởi nguồn từ lá thư của GS Nguyễn Trọng Nhân gửi Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân năm 2010 đề cập đến các nhà khoa học đầu tiên sang Liên Xô học tập, chúng tôi lần tìm được danh sách những cán bộ đi học khóa đầu tiên gồm 21 người. Tưởng chừng công cuộc tìm kiếm các cán bộ này thật đơn giản khi đã có tên, tuổi, chuyên ngành, nhưng trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phải đối mặt với biết bao khó khăn. Khó khăn lớn nhất là phần lớn các nhà khoa học đã mất, thậm chí có người mất từ những năm 60, 70 (Ông Tăng Văn Bằng, KTS Đỗ Hữu Dư, ông Lê Trọng Đồng, ông Nguyễn Văn Nhiên) nên gia đình chỉ lưu giữ được một ít tư liệu của các ông. Có những nhà khoa học, mặc dù có tên tuổi nhưng lại không tìm thấy địa chỉ liên hệ vì gia đình chuyển nhà nhiều lần (như ông Văn Tôn, Nguyễn Lộc). Rồi một số người thì ở tỉnh xa như Cao Bằng, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh… Nhưng dường như được “âm phù dương trợ”, nhóm nghiên cứu đã may mắn tìm được hai người trong đoàn còn sống: Thiếu tướng Phạm Như Vưu (93 tuổi) và PGS.Thiếu tướng Lê Văn Chiểu (87 tuổi).

Với đội ngũ nghiên cứu gồm 3 thành viên trẻ và hai cộng tác viên giàu kinh nghiệm, nhóm nghiên cứu thường xuyên tổ chức các buổi trao đổi về định hướng, phương pháp nghiên cứu với sự định hướng của Giám đốc chuyên môn – PGS.TS Nguyễn Văn Huy. Ngay sau khi xây dựng đề cương nghiên cứu, chúng tôi đã bắt tay khai thác thông tin theo nhiều nguồn như Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Thư viện Quốc gia, Bảo tàng Hồ Chí Minh và các cơ quan, đơn vị mà nhà khoa học từng công tác để tìm hiểu về bối cảnh của chuyến đi lịch sử này. Chúng tôi đã tiếp cận các tư liệu về Bác Hồ, Lịch sử Đảng và hồi kí của các đồng chí lãnh đạo như Trường Chinh, Trần Đăng Ninh… để tìm kiếm thông tin về Đoàn. Tuy nhiên, có lẽ sự kiện năm xưa là điều bí mật lúc bấy giờ nên không hề có văn bản nào ghi dấu. Cuốn Lịch sử Giáo dục Việt Nam, Lịch sử quan hệ ngoại giao Việt – Nga và một số luận án về quan hệ Việt – Nga có nhắc đến đoàn cán bộ được cử đi học năm 1951, nhưng thông tin chỉ dừng lại ở đó. Vì vậy, công tác nghiên cứu có những lúc tưởng chừng bế tắc.

Nhưng với sự kiên định về ý nghĩa của nghiên cứu này, nhằm khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, góp thêm tư liệu về quan hệ bang giao Việt Nam – Liên Xô và lịch sử giáo dục nước ta nên chúng tôi tiếp tục tìm kiếm thông tin. Và thành công không phụ niềm tin và lòng nhiệt huyết của chúng tôi. Tín hiệu đáng mừng khi nhóm nghiên cứu thông qua bài viết của TS Nguyễn Lệ Nhung, đã phát hiện hai văn bản bằng tiếng Nga hiện được lưu trữ tại Viện Lưu trữ Nhà nước Lịch sử hiện đại Nga và Viện Lưu trữ Lịch sử Chính trị xã hội Quốc gia Nga. Đó là Nghị quyết Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô ngày 10-11-1950 về việc 21 chuyên gia Việt Nam Dân chủ cộng hòa sang Liên Xô và Thư gửi Stalin của Chủ tịch Ủy ban đối ngoại chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô về việc đoàn cán bộ khoa học kĩ thuật Việt Nam sang Liên Xô học tập năm 1950. Những tư liệu này đã chứng tỏ tầm nhìn xa của Đảng ta và minh chứng việc Đoàn cán bộ đầu tiên sang Liên Xô học tập đã được Trung ương Đảng ta chuẩn bị từ cuối năm 1950, khi cuộc Kháng chiến chống Pháp đang quyết liệt sau chiến dịch Biên giới.

Song song với công tác nghiên cứu, sưu tầm tư liệu về bối cảnh chung của Đoàn, chúng tôi tiến hành gặp gỡ đối tượng nghiên cứu chính – các nhà khoa học và gia đình nhà khoa học trong Đoàn. Sau hơn một năm triển khai, chúng tôi đã tiến hành 129 buổi gặp gỡ, sưu tầm tư liệu, hiện vật các nhà khoa học và gia đình họ. Trong đó, đặc biệt phải kể đến sự ủng hộ của hai nhân chứng sống trong Đoàn. Với Thiếu tướng Phạm Như Vưu, cứ đều đặn trong suốt một năm, vào sáng thứ 5 hàng tuần nhóm nghiên cứu đến làm việc với ông, được nghe ông kể những kí ức về làng quê nơi ông sinh sống, về gia đình, quá trình phấn đấu học tập, công tác trước và sau khi đi học Liên Xô… Trong tâm trí của người lính già đã ngoài 90 tuổi, ông đã quên nhiều nhưng khi được chia sẻ với nhóm nghiên cứu, nét mặt ông thật vui và thoải mái sau mỗi cuộc tiếp xúc. Ông cho biết: “Tôi hoàn toàn tin tưởng Trung tâm khi gửi gắm những kỉ vật gắn bó với mình quá nửa cuộc đời”. Đó là quyển nhật kí trên đường đi học Liên Xô năm 1951, ghi lại cảm tưởng của ông suốt quãng đường từ Việt Nam sang đất nước Lênin; đó là album ảnh cùng các bạn trong Đoàn tham gia các hoạt động và học tập tại Liên Xô; đó còn là những kỉ vật đi chiến trường Khe Sanh hay ảnh tư liệu hợp tác với chuyên gia Trung Quốc xây dựng các nhà máy quân giới… Rất nhiều, rất nhiều kỉ vật và tài liệu được cẩn thận gìn giữ hàng mấy chục năm đến nay ông tin tưởng giao cho Trung tâm lưu giữ, bảo quản.

Còn với PGS.Thiếu tướng Lê Văn Chiểu, người trẻ nhất trong Đoàn năm xưa nhưng sức khỏe nay đã giảm sút nhiều với cái tuổi “bát thập” thì tuần nào, nhóm nghiên cứu cũng đến phỏng vấn, hỏi thông tin về lịch sử cuộc đời và những đóng góp của ông. Mỗi lần hỏi: “Hôm nay ông có khỏe không?”, chúng tôi đều nhận được câu trả lời: “Ông khỏe, cháu không phải lo, ông còn khỏe đến khi nào cháu xong nghiên cứu này”. Rồi ông kể, đôi mắt nhìn xa xăm, những hồi tưởng về thời thơ ấu ở Huế hay ngày đầu tiên ra Hà Nội, vào Quân giới rồi được cử đi học Liên Xô… ùa về. Như sợ thời gian trôi qua thật nhanh, PGS.Thiếu tướng Lê Văn Chiểu tuần nào cũng gọi nhóm nghiên cứu đến để chia sẻ những kí ức và trao tặng các tài liệu hiện vật của mình.

Bên cạnh gặp gỡ hai nhân chứng sống, với phương pháp nghiên cứu khách quan, trung thực, khoa học, chúng tôi đã kết hợp nghiên cứu nhiều chiều: khai thác thông tin từ vợ, con, anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp của nhà khoa học. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả với các nhà khoa học đã mất như Thứ trưởng Hoàng Bình, GS Ngô Huy Quỳnh, GS Phạm Đồng Điện, GS Lê Duy Thước… Một kỉ niệm đáng nhớ là trong lần sưu tầm được cuốn học bạ của GS Phạm Đồng Điện thời cấp 2, chúng tôi tình cờ phát hiện chữ kí của cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, rồi chữ kí của GS Dương Quảng Hàm, GS Nguyễn Mạnh Tường trong phần nhận xét của giáo viên… Để làm rõ câu chuyện ẩn sau cuốn học bạ đặc biệt ấy, chúng tôi đến gặp nhà văn hóa Hữu Ngọc-người học trước GS Phạm Đồng Điện một khóa và cùng được trao giải thưởng của trường Bưởi năm 1938 với Giáo sư. Không những vậy, chúng tôi tìm gặp những người em trai của GS Phạm Đồng Điện như PGS Phạm Quý Tư (nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội) và GS Phạm Văn Thiêm (nguyên cán bộ giảng dạy tại trường Đại học Bách khoa). Các ông đã kể thật nhiều những câu chuyện ấn tượng khó quên về người anh trai. Đó thực sự là những tư liệu quý giá, là “di sản kí ức” của những người thân về GS Phạm Đồng Điện-một người Hiệu trưởng tài năng mà đời sống vô cùng giản dị.

Đến gia đình GS Ngô Huy Quỳnh, chúng tôi như choáng ngợp trước những tư liệu, kỉ vật mà gia đình còn lưu giữ được. Từ quả bóng, cây bút vẽ, con búp bê Nga, những chiếc dĩa, dao, sổ ghi chép, nhật kí, thư viết cho vợ đến những bức ảnh, bức tranh, bản thảo sách, sưu tập tem, sưu tập mẫu tiền cổ… Tất cả như một Viện bảo tàng nhỏ, thể hiện tính thẩm mĩ và đời sống tình cảm phong phú của Giáo sư. Anh Ngô Thành Nhân, con trai út của GS Ngô Huy Quỳnh cũng say sưa kể cho chúng tôi những câu chuyện về cuộc đời hoạt động của cha mình.

Đặc biệt, những “người ở phía sau” của các nhà khoa học được chúng tôi khai thác thông tin cặn kẽ. Trong các buổi gặp gỡ với Thiếu tướng Phạm Như Vưu, nhóm nghiên cứu đã nhiều lần phỏng vấn bà Phạm Thị Hạnh (vợ của ông) về những kí ức khi ông bà quen nhau, ngày ông đi học Liên Xô, cuộc sống kinh tế của ông bà… Bà Đoàn Thị Uyển (vợ ông Hoàng Bình), bà Dung (vợ PGS Nguyễn Đức Thừa), bà Nguyễn Thị Lan (vợ PGS Lê Văn Chiểu), bà Phan Việt Liên (vợ GS Trần Linh Sơn), bà Bùi Thị Minh Thu (vợ TS Nguyễn Lộc)… cũng sẵn sàng trả lời phỏng vấn về những ấn tượng sâu sắc về người thân của mình. Đó là những đề tài bất tận mà các bà chia sẻ với nhóm nghiên cứu.

Sau khi nghiên cứu kĩ những nhà khoa học thuộc nhóm LX51 ở Hà Nội, để hoàn thiện chuyên đề nghiên cứu này, chúng tôi lần tìm các nhà khoa học ngành than gồm các ông Văn Tôn, Nguyễn Văn Nhiên, Phan Lục và Nguyễn Thanh Quế. Nhưng ngay cả Thiếu tướng Phạm Như Vưu – người từng tham gia Ban liên lạc của Đoàn cũng không còn địa chỉ của những người này. Thế là, cộng tác viên – Đại tá Trần Ngọc Ánh phải lần mò tìm kiếm, liên hệ nhiều nơi để tìm được người thân của họ. Đây cũng là lần đầu tiên nhóm nghiên cứu của Trung tâm thực hiện hai chuyến công tác xa tại hai đầu đất nước để gặp gỡ, sưu tầm tư liệu của hai ông Nguyễn Văn Nhiên (Cao Bằng) và Nguyễn Thanh Quế (thành phố Hồ Chí Minh). Chuyến đi không những thu thập được các tài liệu, kỉ vật của hai ông mà còn để lại những bài học kinh nghiệm khi tiến hành các nghiên cứu ở địa phương cho nhóm nghiên cứu trẻ. Mới đây, ông Lê Thanh Việt – Nguyên Quản đốc Mỏ than Đèo Nai, một cán bộ lâu năm của ngành Than từng có thời gian công tác với các ông Văn Tôn, Nguyễn Văn Nhiên ở Công ty than Hòn Gai cũng đã cung cấp thêm cho chúng tôi một số thông tin đáng quý.

Một thành công đáng kể khác của nhóm nghiên cứu là việc tổ chức buổi gặp mặt gia đình các nhà khoa học LX51 vào tháng 11-2011. Qua buổi gặp gỡ, Trung tâm đã tạo được tình cảm và sự tin tưởng của các nhà khoa học và gia đình họ với Trung tâm. Nhờ vậy, sau buổi gặp mặt, các nhà khoa học và gia đình tặng nhiều hơn tài liệu hiện vật cho Trung tâm.

Đến nay, nhóm nghiên cứu đã sưu tầm được hơn 2000 tài liệu hiện vật và hơn 1800 bức ảnh của các cán bộ trong Đoàn, viết 11 báo cáo nghiên cứu về lịch sử cuộc đời của các nhà khoa học… Đó là kết quả của sự nhiệt tình ủng hộ của các nhà khoa học và gia đình nhà khoa học, đồng thời cũng là tâm huyết, sự kiên trì và quyết tâm của các thành viên trong nhóm nghiên cứu.

Thông qua bài viết nhỏ này, chúng tôi chân thành cảm ơn các nhà khoa học và gia đình đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thiện chuyên đề nghiên cứu về nhóm LX51 và rất mong sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ trong thời gian sắp tới.

Trần Bích Hạnh

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam