Sách và các bài báo viết về con người và sự nghiệp của ông đã được xuất bản nhiều, trong đó có hai quyển tập hợp nhiều ý kiến đánh giá khá đầy đủ của các nhà khoa học và nhà giáo dục trong nước và ngoài nước: Quyển Tạ Quang Bửu dày hơn 1.000 trang do GS-TS Nguyễn Văn Đạo chủ biên, in năm 2004; và quyển Tạ Quang Bửu, thân thế và sự nghiệp, NXB Giáo Dục in năm 2010.
Nhiều người đã biết về cuộc đời xuất chúng và những đóng góp to lớn của ông đối với đất nước: Ngay sau Cách mạng tháng Tám, ông đã được Bác Hồ giao làm trợ lý ngoại giao cho Bác, rồi chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (từ 1947 đến 1961, trong đó có một năm làm Bộ trưởng), là người thay mặt Bộ Quốc phòng Việt Nam ký Hiệp định Genève năm 1954, đã làm Hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Phó chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký Ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước (từ 1959 đến 1965), Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (từ 1965 đến 1976), đại biểu Quốc hội (từ 1946 đến 1981).
Mọi người cũng biết là ông nổi tiếng học giỏi từ khi học phổ thông, là người lãnh đạo nổi tiếng trong phong trào Hướng đạo miền Trung, là người chủ chốt lập nên trường Thanh niên Tiền tuyến Huế, là một nhà toán học uyên bác tầm cỡ thế giới… Trong bài báo nhỏ này, tôi chỉ muốn nói lên một số suy nghĩ của tôi về ông – người thầy và người thủ trưởng kính yêu.
Kiến thức rộng về nhiều ngành khoa học
Về kiến thức toán học của ông, ta được biết là GS Laurent Schwartz, nhà toán học Pháp đã được giải thưởng Fields, đã chia với ông một phần tiền của giải thưởng (mà ông đã tặng lại cho trường Đại học Tổng hợp Hà Nội để trang bị Phòng thí nghiệm siêu dẫn) nghĩa là ông có những đóng góp vào chuyên đề của GS Schwartz.
Ngoài ra, ông có những công trình gì nữa, ta không được biết. Chỉ biết là kiến thức của ông rất rộng, ông đã thường xuyên tổ chức các báo cáo chuyên đề về nhiều vấn đề của toán học hiện đại (lý thuyết tập hợp, lý thuyết tai biến, lý thuyết phân bố…) và cả về nhiều ngành khoa học tự nhiên khác, như cơ học lượng tử, toán-vật lý, sinh học phân tử… cho các thầy giáo đại học, các tiến sĩ và phó tiến sĩ tốt nghiệp nước ngoài về.
GS Hoàng Xuân Sính chuẩn bị giảng dạy môn Topo Đại số, được ông cho mượn một quyển sách Topo mới, kèm một quyển sổ ghi chép của ông, trong đó ông đã giải tất cả bài tập trong quyển sách, mà có bài anh chị em bộ môn của GS Sính giải không ra. GS Naom Chomski, một nhà toán-ngôn ngữ, đã thốt lên: “Ông Bửu là một người có một trí thông minh ghê gớm (un homme d’une intelligence formidable)… Tôi đã đi nhiều nước, mà chưa hề gặp một ông bộ trưởng thông thái đến như vậy”.

Năm 1948, ở chiến khu Việt Bắc, ông đã viết quyển Sống, giới thiệu một cách rất đơn giản những khái niệm hiện đại về sinh học, mà GS Nguyễn Lân Dũng đánh giá là “kỳ lạ”, vì ông đã có những tiên đoán về ngành sinh học lượng tử, một ngành mãi sau này mới hình thành.
Một bạn học cũ của ông đã nói: “Tiếc rằng anh Bửu đi vào nhiều môn quá, chứ nếu anh đi sâu vào một chuyên ngành về toán, nhất định sẽ đạt được những thành tựu lớn cho khoa học ở tầm cỡ thế giới”. Nhưng đó chính là một thế rất mạnh của ông và nhờ đó ông đã đóng góp rất nhiều cho việc phát triển nhiều ngành khoa học của đất nước, nhất là trong việc định hướng nghiên cứu cho các nhà khoa học trẻ, không chỉ về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, mà cả về khoa học nhân văn.
Rất nhiều nhà khoa học đã thành danh đều nhắc lại sự góp ý định hướng của ông vào việc chọn đề tài nghiên cứu của bản thân. Ông còn giới thiệu những quyển sách mới cần đọc, những tác giả lớn cần tìm hiểu, đồng thời giới thiệu những giáo sư về chuyên đề đó để nhờ hướng dẫn. Các giáo sư Nguyễn Văn Hiệu, Hoàng Tụy, Vũ Đình Cự, Ngô Việt Trung và nhiều người khác… đều nói rất rõ đóng góp to lớn của ông trong những thành tựu khoa học của mình.
Và chúng ta không biết có bao nhiêu nhà khoa học trẻ, bao nhiêu đề tài nghiên cứu thuộc về những ngành khoa học nào, về những đề tài chuyên môn hẹp nào… đã nhận được sự dẫn dắt của ông trong những năm ông lãnh đạo Ủy ban KHKTNN và Bộ ĐH&THCN. Và nhờ đó mà nền khoa học non trẻ của chúng ta đã không bị quá lạc hậu và đã có mặt trên diễn đàn thế giới trong các ngành khoa học hiện đại nhất.
Ông không chuyên sâu vào một môn nào, nhưng nhiều nhà khoa học tầm cỡ thế giới đều quý trọng ông, xem ông là bạn quý, đã nhận học trò của ông giới thiệu, và tiếp tục giúp cho các trường, các viện của ta mở thêm nhiều chuyên ngành mới, cả về cử chuyên gia sang và cả giúp trang thiết bị. Và trong tình hình bao vây cấm vận của Mỹ, ông đã lôi kéo được nhiều nhà khoa học thế giới tư bản không chỉ giúp ta về khoa học mà còn ủng hộ dân tộc ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất, trong đó có nhiều trí thức Việt kiều nổi tiếng đã giúp tạo nhịp cầu giữa khoa học-giáo dục nước nhà với thế giới.
Nhà tổ chức bộ máy khoa học, giáo dục, quốc phòng
Nhiều người biết là ông rất giỏi về toán, cứ nghĩ là ông là một nhà lý thuyết. Nhưng ông đồng thời cũng là một người rất tài năng về mặt xây dựng bộ máy tổ chức thực hiện, về mặt quản lý điều hành ở cấp vĩ mô cũng như ở cấp cụ thể, có cách tiến hành công việc rất phù hợp với cuộc sống hiện thực của đất nước trong từng giai đoạn để có những biện pháp thích hợp. Ông là người chủ trì xây dựng đề án về Ủy ban KHKTNN, đồng thời là người tổ chức thực hiện, là người đặt cơ sở đầu tiên để hình thành bộ máy chỉ đạo khoa học và kỹ thuật của đất nước, vừa có khả năng quản lý khoa học, vừa có khả năng xây dựng những ngành khoa học cần thiết mà ta chưa hề có.
Cũng như vậy, đối với ngành đại học và trung học chuyên nghiệp, dù đã có một vài trường đại học và trung học chuyên nghiệp cũ, nhưng xây dựng cả một hệ thống trường đại học và trung học chuyên nghiệp, bao gồm tất cả những ngành, những lãnh vực cần thiết cho đất nước, định hướng đi đúng đắn cho nền giáo dục đại học là một việc hoàn toàn ta chưa có kinh nghiệm.
Trong những nhà lãnh đạo Ủy ban KHKTNN và Bộ ĐH&THCN hồi đó, có một số những nhà khoa học kỹ thuật và khoa học nhân văn, nhưng người có một hiểu biết rộng rãi về khoa học và giáo dục đại học thế giới, có tầm nhìn tổng quan về sự phát triển của thế giới, có những suy nghĩ tìm tòi về con đường đi lên hiện đại của một nước nông nghiệp lạc hậu trong thời đại thế kỷ 20… có lẽ chỉ có một mình ông.

Việc xây dựng bộ máy và chỉ đạo công tác KHKT và giáo dục đại học lúc đó đã có được sự giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô và các nước XHCN, nhưng tiếp thu và vận dụng cho phù hợp với một nước nghèo vừa mới thoát cuộc chiến tranh với Pháp rõ ràng là không dễ. Nhưng tôi đặc biệt lưu ý đến thời kỳ xây dựng bộ máy Bộ Quốc phòng. Lúc đó, ta vừa hoàn thành việc giành chính quyền đã phải lo chiến tranh với Pháp, lúc đầu bằng gậy tầm vông và súng mút để chống lại và phải chiến thắng một cường quốc quân sự của phương Tây.
Lúc đó ta hoàn toàn bị đóng cửa và bịt mắt, không có liên lạc gì với bên ngoài, không học được kinh nghiệm của một ai. Vậy mà phải xây dựng bộ máy một bộ Quốc phòng sao cho phù hợp và tạo điều kiện cho việc từng bước tiến lên chính quy hiện đại của quân đội, sao cho bộ máy Bộ Quốc phòng phải phục vụ có hiệu quả cho từng giai đoạn chiến thuật, từ du kích chiến sang vận động chiến rồi công kiên chiến, từ đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung đến các trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn để đi đến Điện Biên Phủ.
Lúc đó, chắc ông Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu chỉ có thể học trong những sách phong phú mà ông có, trong đó có những sách mà ông đã chỉ đạo mua ở Pháp trong thời kỳ Hội nghị Fontainebleau. Và ông đã góp phần xây dựng một Bộ Quốc phòng hoàn chỉnh, chính quy, hiện đại.
Mặc dù kiến thức khoa học khá cao, ông đã không hề mắc bệnh chủ quan duy ý chí, đã không hề thoát ly hoàn cảnh nông nghiệp lạc hậu và kiến thức thấp của dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến; và đã từng bước đưa bộ máy Bộ Quốc phòng tiến lên hoàn thành nhiệm vụ một cách thông suốt. Tôi nghĩ rằng sự đóng góp to lớn ấy của ông cần phải được đi sâu phân tích để rút ra nhiều bài học lớn về tổ chức bộ máy cho chúng ta ngày nay.
Tất nhiên trong công việc to lớn đó, ông có sự cộng tác của nhiều cán bộ có năng lực và tâm huyết, nhưng ta cũng có thể khẳng định vai trò của ông là quyết định. Ông Hoàng Đình Phu – nguyên Giám đốc Nha Kỹ thuật Bộ Quốc phòng (thay ông Trần Đại Nghĩa), nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban KHKTNN – đã viết: “Ngày nay, nhìn lại tổ chức ngành quân giới cũng như kỹ thuật nghiên cứu quân giới lúc bấy giờ, thật không khỏi ngạc nhiên là vì sao lúc ấy, trong những năm 1946-1947, quân đội ta lại có thể dựng lên một cơ quan kỹ thuật có tính hoàn chỉnh cao như vậy, ngay những khi đối chiếu với những nguyên lý của Lý thuyết hệ thống, của những nguyên lý tổ chức khoa học mà ta biết được trong thời gian gần đây”. Đối với các Cục khác của Bộ Quốc phòng, chắc cũng có thể phát biểu tương tự như vậy.
Với kiến thức khoa học uyên bác, ở tầm cao và bao quát nhiều ngành, ông đã có tác động to lớn vào việc xây dựng các ngành khoa học nước ta, chuẩn bị cho nhiều ngành khoa học mới và hiện đại, định hướng phát triển các ngành phù hợp với yêu cầu của đất nước, chăm lo việc đào tạo cán bộ và cả việc xây dựng cơ sở thiết bị nghiên cứu thí nghiệm của các viện, các trường đại học. Đã có nhiều nhóm cán bộ khoa học (cả những người đã có bằng Tiến sĩ khoa học) được ông đưa đi đào tạo chuẩn bị cho những ngành mới.
Trước khi đi, các nhà khoa học trẻ được ông căn dặn, chọn các hướng đi sâu cho từng người, giới thiệu thầy (các giáo sư của nước bạn) và định hướng hoạt động sau khi về nước. Đã có bao nhiêu nhóm như thế ở Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia, ở các Viện, và đã có những chuyên ngành hiện đại nào được phát triển dưới sự chỉ đạo của ông, quả thật chưa có ai thống kê đánh giá.

Dưới sự định hướng và ủng hộ của ông, đã hình thành các Hội khoa học chuyên ngành về sau đã thành những Viện khoa học (Viện Toán, Viện Vật lý, Viện Cơ học…), đã xuất bản nhiều tạp chí khoa học, trong đó có những tạp chí bằng tiếng nước ngoài để trao đổi quốc tế, đã tổ chức nhiều seminar(**) khoa học, đã mời nhiều nhà khoa học tầm cỡ thế giới đến báo cáo chuyên đề… Tất cả những hoạt động khoa học dưới sự chỉ đạo của ông đã tạo nên một không khí học thuật đẹp đẽ trong đội ngũ các nhà khoa học trẻ mà có lẽ hiện nay khó lòng có được.
GS Hoàng Tụy viết: “Thời Anh (tức là những năm Tạ Quang Bửu lãnh đạo khoa học và giáo dục đại học), đó là thời tuy ăn chưa đủ, ở còn chật, nhưng thứ bảy, chủ nhật và nhiều buổi tối, người ta vẫn hồ hởi gặp nhau đâu đó để nghe Anh nói chuyện, với cái biệt tài riêng của Anh, luôn luôn hấp dẫn, làm cho người nghe khi ra về, dù không hiểu nhiều vẫn được truyền lại cái nhiệt tình sôi nổi của Anh với đất nước, với khoa học, với thế hệ đàn em và tăng nghị lực vượt qua khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Đó là thời, tối tối người ta rủ nhau đi học chuyên đề, đi đến thư viện, đi ra hiệu sách khoa học kỹ thuật có khi đến tận 9-10 giờ đêm, mà không hề nghĩ đến cái gì khác ngoài việc nâng cao trình độ để làm việc cho tốt hơn”.
Về giáo dục đại học, ông đã đặt nề nếp cho một nền đại học chất lượng tốt, đã kiên quyết tổ chức thi tuyển sinh vào đại học, thi tuyển đi học nước ngoài, thi tuyển chọn nghiên cứu sinh, bảo đảm cho mọi thanh niên có khả năng đều được đi học, xây dựng sự công bằng xã hội trong học tập. Việc đó cũng đã đưa lại cho ông nhiều phiền toái, nhưng ta đã biết, ông không hề chùn bước.
Ở Tạ Quang Bửu có cái tính giản dị mộc mạc và dũng cảm của người lính, cái thông minh tinh tế của người trí thức, cái sâu sắc và thâm thúy của các bậc thâm Nho, cái nhìn xa trông rộng cùng với tấm lòng độ lượng, bao dung của người lãnh đạo và cũng có cái tận tình săn sóc của người thầy giáo.
Ông đã tổ chức các Ban Thư ký môn học, chỉ đạo viết sách giáo khoa đại học, tổ chức hội thảo về phương pháp dạy đại học, thành lập CLB Phương pháp luận khoa học, chỉ đạo nghiên cứu phương pháp luận các ngành khoa học (tự nhiên, kỹ thuật và xã hội nhân văn), tổ chức các lớp chuyên, tổ chức đào tạo phó tiến sĩ trong nước… Đội ngũ đông đảo các cán bộ trẻ ông đưa đi đào tạo ở nước ngoài đã trở thành cán bộ nòng cốt của các Bộ, các ngành kinh tế – xã hội trong nước.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, ông đã đưa giáo viên và sinh viên các trường đại học tham gia phục vụ kháng chiến, huy động cán bộ khoa học các trường đại học giải quyết những vấn đề lớn của chiến tranh (làm cầu treo, cầu dã chiến, phá thủy lôi, phá bom từ trường), nhiều đề tài được tặng thưởng Huân chương của nhà nước.
Ông có sức thu hút mạnh mẽ đối với thanh niên và trí thức trẻ. Mọi người kính phục và thực sự yêu mến ông, không chỉ vì kiến thức uyên bác và tài lãnh đạo, mà chủ yếu vì nhân cách và con người của ông, nhiều người tự nhận vinh dự là học trò của ông dù chưa được học với ông giờ nào. Giới trí thức trong toàn quốc xem ông là Người anh cả của ngành đại học và của các nhà khoa học Việt Nam.
Ở ông, có cái tính giản dị mộc mạc và dũng cảm của người lính, cái thông minh tinh tế của người trí thức, cái sâu sắc và thâm thúy của các bậc thâm Nho, cái nhìn xa trông rộng cùng với tấm lòng độ lượng, bao dung của người lãnh đạo và cũng có cái tận tình săn sóc của người thầy giáo. Ông sống rất trong sáng và liêm khiết. Có lẽ ông là người nghèo nhất trong các bộ trưởng thời ấy, nhà đông con (6 người con) nhưng gia đình không có thu nhập gì khác ngoài chế độ tem phiếu của bộ trưởng.
Vợ và các con ông vẫn phải nhận làm hàng thủ công cho mậu dịch, phải nuôi lợn, phải đi nhặt cây gãy cành khô về nấu cám lợn… Trong lúc ông làm Bộ trưởng ngành đại học, trong 6 người con của ông chỉ có một anh con trai đi học đại học ở CHDC Đức, còn thì tất cả đều học trong nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quân sự. Đời sống chật vật của gia đình ông, sau này anh em mới được biết và không tránh được một cảm giác ngạc nhiên đầy thương cảm và càng đậm thêm lòng quý trọng đối với ông.
Thủ tướng PhạmVăn Đồng, vào thăm ông trong giây phút cuối cùng đã ôm các con ông mà khóc: “Cha các cháu là một người dũng cảm, rất dũng cảm”. GS Nguyễn Như Kim viết: “Con người anh Bửu, thông minh mà không kiêu, làm quan mà tính dân, coi trọng thực chất, coi thường hư danh, sự nghiệp là trên hết, nói ít làm nhiều, chân thành cởi mở, giúp đỡ vô tư với mọi người. Phải chăng đó là biểu hiện tính thiện tâm của Con Người – Con Người theo nghĩa viết hoa của nó”.
Ông Trần Văn Chương viết: “Thông minh, học vấn uyên thâm, phát triển toàn diện, trung thực nhân hậu, sống thanh bạch trong sáng… một trí thức xã hội chủ nghĩa có tầm cỡ quốc tế, một Lê Quý Đôn của thời đại ngày nay”.
GS Hoàng Tụy viết: “Riêng trong cộng đồng giáo dục và khoa học, nhiều năm sau chúng tôi mới thấm thía sự mất mát to lớn đó. Có những nhân cách và tài năng mà chỉ sau khi vắng bóng họ, người đời mới thấy hết khoảng trống mênh mông họ để lại. Anh Bửu là một con người như thế”.
Nhiều bạn bè ông ghi nhớ câu ông đã viết trong lời tựa quyển sách Sống (viết trong thời gian khángchiến chống Pháp, xuất bản ở chiến khu Việt Bắc năm 1948): “Điều cốt yếu không phải là: Sống là gì? Điều cốt yếu là: Làm gì trong lúc sống?”
________
(*) Vụ trưởng Bộ ĐH-THCN
(**) Hội thảo, khóa học ngắn