Nhớ về những “người cha, người mẹ” trong khoa học

 Những lần sang Liên Xô học tập Đại học và bảo vệ Luận án Phó Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học, GS.TSKH Đỗ Ngọc Khuê luôn thấy mình là người may mắn khi có được những “người cha, người mẹ” trong thời gian xa quê hương, gia đình vì nhiệm vụ học tập, nghiên cứu ở Đất nước vĩ đại này.

Những “người cha” nghiêm khắc và tận tụy

 Niềm đam mê Hóa học của GS.TSKH Đỗ Ngọc Khuê được truyền lửa ngay từ khi là sinh viên năm thứ hai Đại học Tổng hợp Kishinhốp, nước Cộng hòa Mônđavi, khi nhà trường tổ chức cho sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học. Trong khi hầu hết các bạn đồng khóa lựa chọn các giáo viên hướng dẫn là thầy giáo trong trường thì thầy hướng dẫn ông là vị GS.TSKH, Viện sĩ Iuri Xecgâyevich Lialicốp của Viện Hàn lâm khoa học Mônđavi vốn nổi tiếng nghiêm khắc và “khó tính”. Nhưng trong cái rủi lại có cái may, cũng chính từ “người thầy nghiêm khắc” này, ông được tắm mình trong môi trường nghiên cứu khoa học khi được theo thầy hướng dẫn trực tiếp làm việc tại Viện Hóa học, Viện Hàn lâm khoa học Mônđavi. Trái ngược với điều kiện nghiên cứu còn rất hạn chế ở các phòng thí nghiệm của trường Đại học, ông không khỏi choáng ngợp và thích thú khi được làm việc tại các phòng thí nghiệm của Viện Hàn lâm với các trang thiết bị thí nghiệm hiện đại bậc nhất lúc bấy giờ cũng như phong cách làm việc hết sức khoa học và nghiêm túc của các cán bộ nghiên cứu, các giáo sư, Viện sĩ có uy tín.

 

 GS.TSKH, Viện sĩ Iuri Xecgâyevich Lialicốp là một chuyên gia nổi tiếng về lĩnh vực phân tích công cụ. Ông là người đã định hướng cho ông nghiên cứu thực hiện Luận văn tốt nghiệp Đại học với chủ đề "Nghiên cứu tính chất cực phổ và khả năng xác định nguyên tố đất hiếm Samari". Mục đích của đề tài là sử dụng các phương pháp phân tích công cụ, chủ yếu là Điện hóa hiện đại để phân tích các tạp chất đất hiếm thường có trong thành phần các chất bán dẫn, phục vụ cho chương trình nghiên cứu về Công nghiệp bán dẫn của Liên Xô lúc đó. GS Đỗ Ngọc Khuê nhớ lại: GS Lialicốp là một Viện sĩ nổi tiếng và ông thường xuyên bận rộn vì công việc, chính vì vậy mỗi tháng ông chỉ dành cho tôi không quá mười lăm phút để trao đổi về các kết quả thực hiện luận án, bởi vậy tôi buộc phải tự hình thành cho mình thói quen chủ động trong mọi việc, phải tự học, tự nghiên cứu; sau đó là rèn kỹ năng có thể trình bày nhanh, gọn (trong 15 phút) nhưng phải đủ để thầy hiểu được các kết quả nghiên cứu của một tháng. Với thời gian được tiếp xúc với thầy rất hạn hẹp, nên nghiên cứu sinh ít có cơ hội để học được nhiều kiến thức ở thầy. Tuy nhiên, bù lại, nhờ uy tín của thầy, tôi được tạo điều kiện tối đa để sử dụng những trang thiết bị hiện đại nhất và luôn nhận được sự ưu ái, quan tâm giúp đỡ tận tình của các cán bộ, cộng tác viên thuộc Viện Hóa học Viện Hàn lâm khoa học Mônđavi. 

 

 

 

" Tôi thật may mắn khi có những người thầy nổi tiếng nghiêm 

 

khắc nhưng rất tận tình"- GS.TSKH Đỗ Ngọc Khuê chia sẻ

Hàng ngày, ngoài giờ lên lớp nghiên cứu sinh Đỗ Ngọc Khuê được trực tiếp tham gia học tập tại phòng thí nghiệm, có điều kiện gần gũi với môi trường nghiên cứu và sinh hoạt theo tác phong Viện Hàn lâm của Liên Xô. Một trong những kỹ năng nữa mà ông học được ở đây, ngay khi còn là sinh viên, đó là viết báo khoa học. Trong môi trường nghiên cứu của Viện Hóa học, để được xét là nghiên cứu viên chính, một yêu cầu có tính chất bắt buộc là trong một năm mỗi cán bộ làm việc tại đây phải có ít nhất hai công trình nghiên cứu khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học của Viện Hàn lâm. Ông được rèn luyện khả năng nắm bắt vấn đề, được hướng dẫn cách đọc tài liệu và thực hành thí nghiệm, cách viết một bài báo khoa học. Từ bài báo đầu tiên ông soạn thảo dài tới 35 trang, thầy đã buộc ông phải sửa tới 6 lần để chỉ còn lại 4 trang gửi đăng tạp chí khoa học. Đến bài báo thứ hai chỉ còn phải sửa 2 lần cho đến các bài tiếp sau, ông đã hoàn thiện được kỹ năng viết báo ở mức có thể tự viết mà ít phải giúp đỡ sửa chữa, bổ sung. Khi tốt nghiệp Đại học, ông đã có 6 bài báo khoa học được đăng tải trên tạp chí chuyên ngành của Viện Hàn lâm khoa học Mônđavi và Liên Xô.

Kết quả học tập xuất sắc thời kỳ học Đại học là một trong những điều kiện giúp ông trở thành một trong 13 người trong số trên 500 lưu học sinh năm khóa 1966-1972 được chuyển tiếp nghiên cứu sinh. Từ 1-1973 Đỗ Ngọc Khuê tiếp tục học tập và nghiên cứu tại Viện Hàn lâm khoa học Mônđavi. Công trình Luận án Phó Tiến sĩ của ông được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở Luận văn tốt nghiệp Đại học. Nếu như các vấn đề còn có tính chất thô sơ, được ông giải quyết trong Luận văn, thì ở Luận án Phó Tiến sĩ, ông được các thầy hướng dẫn cách giải quyết được vấn đề khoa học mang tính nghiên cứu cơ bản cao hơn, thể hiện ở việc đi sâu giải quyết các vấn đề lý thuyết của đề tài nghiên cứu và đặc biệt là mở rộng thêm đối tượng nghiên cứu. Trong hướng đi mới này nghiên cứu viên chính – TS Côpanxkaia, là người đã dành cho ông nhiều sự quan tâm giúp đỡ để hoàn thiện và công bố các bài báo khoa học có chất lượng cao.

Thời gian học Đại học và làm nghiên cứu sinh tại Viện Hóa học, Viện Hàn lâm khoa học Mônđavi, GS Đỗ Ngọc Khuê đã học được, hình thành kỹ năng phát hiện vấn đề mới, cách tra cứu nhanh và hiệu quả các tư liệu, tài liệu khoa học, phương pháp tổ chức thí nghiệm, xử lý số liệu,…. Đây là những bài học cơ bản quan trọng đầu tiên đối với người làm công tác nghiên cứu.

 GS Đỗ Ngọc Khuê chia sẻ: Vì xuất thân từ một "trường địa phương" – đó là tên mà nhiều người ở Matxcơva thường gọi Trường Đại học Tổng hợp Kishinhốp Mônđavi (một nước cộng hòa có dân số chỉ trên 3 triệu người) nên lần đầu (năm 1984) khi đề đạt nguyện vọng được làm thực tập sinh cao cấp để bảo vệ Luận án Tiến sĩ khoa học tại trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp, mặc dù có Giáo sư nổi tiếng của trường là K.Agaxian nhận giúp đỡ, tôi vẫn bị nhà trường từ chối. Lý do được đưa ra do tôi không phải là sinh viên và nghiên cứu sinh cũ của trường. Tôi buộc phải chuyển về thực tập tại trường cũ là Đại học Tổng hợp Kishinhốp. Lúc đó tôi rơi vào tình thế rất khó khăn vì tại trường Kishinhốp Viện sĩ Lialicốp đã mất, mà yêu cầu thầy hướng dẫn làm luận án Tiến sĩ khoa học phải là GS,TSKH. Khoa Hóa Đại học Tổng hợp Kishinhốp lúc đó cũng không có ai là GS, TSKH cho nên không có người làm cố vấn khoa học cho Đề tài của tôi, mà thời hạn thực tập sinh cao cấp chỉ có 2 năm. Trong tình thế cấp bách đó tôi bỗng nhớ đến GS.TSKH Iacốp Iôxiphôvích Turyan, lúc đó đang là Chủ nhiệm Bộ môn Hóa phân tích thuộc Đại học Bách khoa Craxnodar. Ông là một chuyên gia nổi tiếng về phân tích điện hóa. Ngay từ những ngày còn ở trong nước, tôi đã rất quan tâm tới hướng nghiên cứu của GS.TSKH Iacốp Iôxiphôvích Turyan. Tôi đã viết thư cho GS Tuyran với lời đề nghị ông giúp đỡ hướng dẫn tôi làm Luận án Tiến sĩ khoa học. Thật không ngờ, nhận được thư của tôi GS.TSKH Iacốp Iôxiphôvích Turyan đã bay từ Craxnodar tới Kishinhốp vì Luận án của tôi. Sau khi xem các kết quả nghiên cứu mà tôi trình bày, ông khen đó là một hướng đi mới rất hấp dẫn cho nên ông đề nghị tôi phải xin phép chuyển về ngay Craxnodar để ông có điều kiện hướng dẫn. Tuy nhiên do một vài lý do,. phải một năm sau (10-1985), nhờ sự giúp đỡ của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô và cá nhân bà Thứ trưởng Bộ Đại học Liên Xô, tôi mới có cơ hội chuyển về Craxnodar làm việc dưới sự hướng dẫn của GS Tuyran. Giáo sư Tuyran động viên tôi: như vậy ta chỉ còn có 1 năm để làm việc. Thời hạn quá ít để hoàn thành một bản Luận án TSKH. Vì vậy ta phải cố gắng tối đa thôi.” [1]

 Giáo sư Turyan là một người thầy rất nổi tiếng ở Liên Xô lúc đó. Ông đã hướng dẫn trên 40 Phó tiến sĩ và 15 Tiến sĩ và là tác giả của trên 50 bằng phát minh sáng chế được Liên Xô và nước ngoài cấp. Ông là người có thói quen làm việc khoa học và nghiêm túc. GS Tuyran là người gốc Do Thái. Với Việt Nam ông là người có sự đồng cảm chân thành, bởi cũng như dân tộc ông, dân tộc Việt Nam cũng là dân tộc rất kiên cường và dũng cảm nhưng cũng phải chịu nhiều đau khổ. Chính vì vậy tình cảm mà ông dành cho tôi luôn thể hiện rõ sự chân thành. Ông luôn nhắc nhở tôi là phương pháp luận khoa học là thước đo trình độ của các nhà khoa học. Nếu không có phương pháp luận tốt thì ta chỉ là nhà khoa học “thời vụ” mà thôi.

 Năm 1986 đúng là một năm vất vả đối với hai thầy trò tôi. Có rất nhiều đêm, hai thầy trò cùng nhau làm việc tới tận khuya. Cả Tết năm 1986, chúng tôi làm việc tại nhà của thầy và được vợ thầy nấu các món ăn dân tộc Do Thái rất ngon để chiêu đãi. Đó là một thời điểm đáng nhớ với hai thầy trò vì chỉ sau vài ngày làm việc căng thẳng cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được phương pháp luận và lời giải cho các vấn đề lý thuyết quan trọng còn vướng mắc chưa được giải quyết trước đó. Đó cũng là cơ sở để sau này tôi có thể tự mình viết bản Luận án TSKH và hoàn thành việc bảo vệ nó tại một trường Đại học danh tiếng bậc nhất ở Liên Xô – Đại học Tổng hợp Lômônôxốp, mặc dù không còn có thầy ở bên”.

 Đối với GS Đỗ Ngọc Khuê, những người thầy giỏi đã như những “người cha” nghiêm khắc nhưng cũng rất tận tình để giúp ông rèn luyện kỹ năng, tiếp thu kiến thức, dần hoàn thiện cả phương pháp luận và năng lực của một nhà nghiên cứu khoa học. Những bài học lớn mà ông học được từ các “sư – phụ” đã trở thành kim chỉ nam cho ông trong hoạt động khoa hoc sau này.

Và một “người mẹ” tận tâm

Cầm trên tay tấm hình của TS Lutmila Vaxilepna Myrovich, GS Đỗ Ngọc Khuê rất xúc động khi nhớ về những tháng ngày trên đất nước Liên Xô: “Đúng là có một khoảng thời gian ở Liên Xô tôi nằm bệnh viện, đặc biệt là trong giai đoạn tôi làm nghiên cứu sinh (1972—1975). Về sức khỏe thì có thể nói tôi là người bất hạnh. Thế nhưng bù lại, tôi lại là một trong những lưu học sinh được hưởng nhiều ân tình nhất của các cô giáo – người mẹ Nga. Cuộc đời đã đưa cô Myrovich đến với tôi như một phép màu để chăm sóc lo lắng cho tôi như một người mẹ mỗi khi tôi gặp khó khăn về sức khỏe. Ngoài vai trò là người thầy hướng dẫn, bà còn dành thời gian để chăm sóc sức khỏe của tôi. Bà chưa một lần đến Việt Nam nhưng trong suy nghĩ của bà, Việt Nam rất nghèo khó nhưng anh dũng, và những người con Việt Nam được sang đây học rất đáng được quan tâm, chăm sóc. Trong suốt những thời gian phải nằm điều trị ở bệnh viện, TS Myrovich đã coi tôi như con trai của bà, lo lắng từng bữa ăn, giấc ngủ, viên thuốc đến biến chuyển của bệnh tình”.[2]

 

 

TS Lutmila Vaxilepna Myrovich và học trò Đỗ Ngọc Khuê (1972)  

 

cùng lá thư với tình cảm thân thương bà gửi GS Khuê năm 1975.

 

 Chững lại dòng cảm xúc, GS Đỗ Ngọc Khuê tiếp lời: Lúc đó, ở Mônđavi cũng khó khăn lắm, nhưng trong thời gian ở bệnh viện, bà thường đem đến cho tôi những quả chanh vàng ươm, mà lúc đó chanh vàng là loại quả quý, rất hiếm hoi. Ngay cả khi tôi đã được xuất viện và trở lại làm việc bà vẫn luôn chú ý chăm lo để tôi mau hồi phục sức khỏe. Tiến sĩ Myrovich động viên tôi cố gắng đi bộ hàng ngày từ phòng thí nghiệm về nhà bà qua thung lũng Hoa hồng, cách phòng thí nghiệm khoảng trên 4, 5 km. Thứ bảy, chủ nhật ngày nghỉ tôi lại được bà nấu cho những món ăn ngon. Anh trai của bà lúc đó làm ở Bộ Y tế Ucraina, cho nên những loại thuốc tốt bà đều có và bà đã dành cho tôi những thuốc cần thiết. Có thể nói cuộc sống của nghiên cứu sinh lúc đó rất khó khăn đến mức có lúc ngày 8-3 chúng tôi muốn cũng không có tiền để mua một bó hoa tặng cho các cô giáo của mình.Vậy mà bà, cũng như các cô giáo khác vẫn vô tư dành cho chúng tôi tình yêu thương như với những đứa con ruột của mình”. Còn gì hạnh phúc hơn được sống trong tình cảm đặc biệt như thế! Và điều này đã thực sự trở thành động lực để tôi càng cố gắng hơn trong học tập, nghiên cứu”.

 

 Vì đặc thù công việc, gần 40 năm qua, GS.TSKH Đỗ Ngọc Khuê chưa có điều kiện trở lại thăm cô giáo – TS Myrovich, nhưng mỗi lần nhắc đến "người mẹ" đặc biệt này, ông không khỏi xúc động và biết ơn sâu sắc.

 Trong cuộc đời GS.TSKH Đỗ Ngọc Khuê, ông luôn tự hào và cảm thấy mình may mắn khi gặp được những thầy giỏi, tận tình trong suốt chặng đường học vấn của ông trên Đất nước Xô viết. Và niềm hạnh phúc to lớn mà ông luôn ghi tạc là tấm lòng của người mẹ hiền – cô giáo Myrovich đã luôn tận tình, giúp đỡ ông lúc khó khăn. Đó chính là đòn bẩy tinh thần lớn lao trong cuộc đời khoa học của Giáo sư Đỗ Ngọc Khuê. Cùng với niềm đam mê, sự kiên định để vượt lên hoàn cảnh khó khăn, ông đã nỗ lực hết mình để vươn tới đỉnh cao trong nghiên cứu khoa học, đóng góp vào thành tựu khoa học chung của đất nước.

 

Nguyễn Thị Hiên

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

[1]Phỏng vấn GS.TSKH Đỗ Ngọc Khuê, ngày 13-6-2013

[2] Phỏng vấn GS.TSKH Đỗ Ngọc Khuê, ngày 13-6-2013