Bước đầu vào nghề
Năm 1959, khi đang học năm thứ 2, chuyên ngành Điện trường Đại học Bách khoa Hà Nội, sinh viên Nguyễn Văn Ba cùng một số bạn được lựa chọn làm cán bộ giảng dạy tại bộ môn Toán để bổ sung lực lượng giảng viên ở thời kỳ đó [1]. Trong khi các đồng nghiệp yên tâm nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành Toán thì ông lại có suy nghĩ rẽ sang hướng khác có tính chất thực hành nhiều hơn, đó là lĩnh vực liên quan đến máy tính. Lúc này nước ta chưa có ngành Công nghệ thông tin mà qua các phương tiện thông tin đại chúng, cùng với việc đọc tài liệu, ông biết rằng các nước như Liên Xô, Anh, Mỹ đã sử dụng máy tính. Tuy nhiên những suy nghĩ này ông vẫn chỉ ấp ủ trong lòng, bởi lúc bấy giờ không ai dám nghĩ đến học về máy tính, vì đấy là chuyện xa vời. Nó cũng giống như nguyên tử, máy tính chỉ có ở Mỹ, Liên Xô chứ không phải ở nước mình[2].
Cho đến năm 1968 khi được lựa chọn đi làm nghiên cứu sinh tại Ba Lan, ông mới có cơ hội thực hiện niềm ấp ủ đó. Ông đã gửi đề cương nghiên cứu và đăng ký làm nghiên cứu sinh với trường Đại học Bách khoa Hà Nội về đề tài Lý thuyết Ôtômát, hoặc Lý thuyết máy tính.
Năm đó, có rất đông người đi làm nghiên cứu sinh. Ông còn nhớ: Số nghiên cứu sinh đi cùng đợt tôi ngồi hết cả toa chứ không phải ít. Tàu đi qua lãnh thổ Trung Quốc rồi đi dọc Siberi cũng mất đến 6, 7 ngày mới đến nơi. Tôi cùng toa với bà Trần Thị Tâm Đan (sau là Ủy viên Thường vụ Quốc hội)[3].
Sau 1 năm học tiếng, ông Ba được GS Zdiwaw Pawlak trực tiếp hướng dẫn. Ông tâm sự : Trong số 3 kỹ sư có đóng góp trong công cuộc xây dựng ngành máy tính ở Ba Lan thì có thầy hướng dẫn của tôi. Tôi gặp được thầy là một cái duyên vì thầy vốn là một kỹ sư về kỹ thuật nhưng thầy lại nghiên cứu nghiêng về lý thuyết- vấn đề mà tôi đang quan tâm[4]. Từ đó, ông lựa chọn nghiên cứu về lý thuyết máy tính- nghĩa là sử dụng Toán học để triển khai nghiên cứu. Ông đã suy nghĩ: Từ một anh toán, không thể tự nhiên mà nhảy sang cái ngành hoàn toàn không dính dáng đến toán được. Cho nên tôi làm thực ra là về tin học nhưng mà cũng là thuộc phạm vi tin học lý thuyết[5]. Thầy đã đưa ra mô hình máy địa chỉ – là một mô hình sử dụng lý thuyết toán học để chứng minh bản chất của máy tính, rồi để nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Ba tự nghiên cứu, triển khai đề tài Về một mô hình toán học của Máy tính điện tử. Cách hướng dẫn của thầy Zdiwaw Pawlak cũng rất kỳ lạ: Hàng tuần thầy thường tổ chức một buổi semina rồi học trò cứ thế lên trình bày; Hay như trên thư viện, thầy có một tủ đựng tất cả tài liệu, bài viết, vấn đề mà ông quan tâm, nghiên cứu; và mọi người có thể lên tìm đọc thoải mái. Vì đây là một đề tài mới, chưa có ai nghiên cứu nên ngoài tài liệu của thầy hướng dẫn thì không có tài liệu nào khác để ông Ba tham khảo. Điều này đã gây khó khăn, trở ngại lớn đối với ông. Một thời gian dài, NCS Nguyễn Văn Ba không đưa ra được hướng phát triển đề tài và có nguy cơ không thể bảo vệ luận án Phó tiến sĩ theo thời hạn. Trước tình huống đó, ông buộc phải "liều" đưa ra định nghĩa mới rồi tiến hành triển khai, gấp rút hoàn thành luận án "Các máy có địa chỉ" (Về một mô hình toán học của Máy tính điện tử). Luận án được thầy hướng dẫn đánh giá cao và giao cho một nghiên cứu sinh khác đọc, nghiên cứu đề tài của ông. Mục đích của thầy là muốn người khác đưa ra những thắc mắc, những vấn đề thiếu sót của đề tài để tác giả chỉnh sửa và hoàn thiện tốt nhất.
Năm 1972, ông bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ tại trường Đại học Tổng hợp Warszawa, Ba Lan. Với kết quả đạt xuất sắc, thầy hướng dẫn đã đề nghị ông Ba có thể tiếp tục làm luận án Tiến sĩ, nhưng do nhiều lý do cá nhân nên ông Nguyễn Văn Ba không tiếp tục thực hiện nữa.
Dấn thân vào ngành Công nghệ thông tin
Vào năm 1968, một máy tính Minisk22 đầu tiên xuất hiện tại miền Bắc. Đây là một máy tính thô sơ, lập trình trực tiếp trên ngôn ngữ máy và rất bất tiện, được đặt tại Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước. Máy tính đã mở ra một cánh cửa mới cho các nhà khoa học: dùng máy tính điện tử để tính toán khoa học thay cho tính tay[6].
PGS.TS Nguyễn Văn Ba kể về quá trình đến với chuyên ngành Công nghệ thông tin
Năm 1972, ngay sau khi làm nghiên cứu ở Ba Lan về nước, ông Nguyễn Văn Ba công tác tại bộ môn Toán tính, khoa Toán- Lý, trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ông đã cùng các đồng nghiệp trong bộ môn đi học cách lập trình Minisk22, rồi đưa vào giảng dạy môn Máy tính và chương trình thay vì chỉ giảng dạy bằng phương pháp tính như trước cho các sinh viên Toán tính. Việc đưa một môn học mới vào một khung chương trình đã được Bộ duyệt là không đơn giản. Đôi khi các thầy trong bộ môn phải “làm chui”: lồng môn mới vào một môn cũ nào đó. Song song với học lý thuyết, các ông đưa sinh viên đi thực hành trên máy. Vì nhu cầu sử dụng máy tính nhiều nên sinh viên và thầy giáo thường phải tranh thủ thực hành vào các buổi tối. Trong một buổi lễ tốt nghiệp của sinh viên bộ môn Toán tính, đến giờ bảo vệ đồ án thì sinh viên và thầy giáo mới có kết quả thực hành làm trên máy tính
Dần dần một số máy tính hiện đại hơn cũng xuất hiện như máy ODRA ở Viện Tính toán và điều khiển; máy tính Minsk32 ở Viện Toán quân đội và ở Tổng Cục Thống kê, máy EC 1022, trường Đại học Bách khoa Hà Nội…
Thực tế là lúc này cũng chưa ai biết đào tạo bài bản về tin học là như thế nào. Ông Nguyễn Văn Ba và các thầy giáo khác đã cùng nhau tìm hiểu từ tài liệu ở thư viện, sưu tầm tài liệu từ nước ngoài thì đã giác ngộ ra rằng: Tin học cũng như các ngành học chuyên môn khác, cũng gồm các môn học như Ngôn ngữ và kỹ thuật lập trình [7]. Ngoài ra, các ông còn phải giảng dạy các môn có tính nguyên lý như kiến trúc máy tính, ngôn ngữ hình thức, cấu trúc máy tính và giải thuật và những môn học có kỹ thuật cao như chương trình dịch, cơ sở dữ liệu … Dần dần chương trình đào tạo tin học đã hình thành một cách hoàn chỉnh ở trường Đại học Bách khoa Hà Nội và đây cũng là chương trình tin học xuất hiện sớm nhất ở nước ta, trước 10-15 năm so với các trường đại học khác.
Từ một Tổ Toán sau đã hình thành và phát triển thành hai viện: Viện Toán – Tin ứng dụng[8] và Viện Công nghệ thông tin và truyền thông[9], thuộc trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Và PGS.TS Nguyễn Văn Ba luôn tự hào vì đã đóng góp một phần vào sự phát triển đó.
Nguyễn Thị Phương Thúy
_______________________
[1] http://cpd.vn/news/detail/tabid/77/newsid/2378/seo/Bo-mon-Toan-thuo-ban-dau/Default.aspx.
[2] Phỏng vấn PGS.TS Nguyễn Văn Ba, 10-3-2015, tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
[3] Phỏng vấn PGS.TS Nguyễn Văn Ba, 10-3-2015, tài liệu đã dẫn.