Những bài học kinh nghiệm trong giảng dạy

 1. Chuẩn bị bài giảng

Sinh thời, khi đề cập tới vấn đề “Nghiệp vụ Sư phạm”, Giáo sư Đặng Văn Chung đã từng nói: “Nếu quan niệm truyền đạt kiến thức là công tác vận tải kiến thức từ sách qua người thì quá đơn giản, và chỉ cho người giáo viên một vai trò thụ động, vai trò máy phóng thanh, thì vai trò người giáo viên quả là quá thừa”.

Ý thức được trách nhiệm của người thầy cũng như tầm quan trọng của phương pháp truyền đạt kiến thức cho sinh viên, đồng nghiệp, GS Đặng Văn Chung cho rằng “Người giảng viên phải là người có vai trò tích cực sáng tạo trong sự thay đổi hình thức và nội dung, cho phù hợp với đối tượng là người được truyền đạt và hợp với mục đích, yêu cầu mà công tác truyền thụ đề ra”[1] . Trước tiên là việc chuẩn bị cho bài giảng, vì nó là sản phẩm phản ánh trình độ chuyên môn người sản xuất. Ông yêu cầu “Bài giảng phải là một công trình sáng tạo, có ngăn nắp, trật tự, tuần tự thành một hệ thống hợp lý và chắc chắn”[2], và coi việc soạn bài giảng là quá trình sản xuất gồm 3 giai đoạn:

Thu thập nguyên liệu: Là quá trình sưu tầm, đọc tài liệu, sách, vở, hồ sơ, bệnh án… cùng với kinh nghiệm của bản thân để từ đó chọn lọc những kiến thức có thể ứng dụng trong thực tế. GS Đặng Văn Chung lưu ý: “Đọc tài liệu nhiều chừng nào tốt chừng ấy, nhưng không quên tài liệu chính là kiến thức kinh điển”[3], đồng thời loại bỏ ý kiến cá nhân của người viết và những “quan điểm duy tâm trong y học đế quốc”. Từ đó viết đề cương dàn bài, phân bố các phần cho đúng với nội dung, thời gian. Trong công việc này, ông cho rằng nên cương quyết không nhìn tài liệu bởi phụ thuộc quá nhiều vào đó thì dàn bài sẽ không sát với đối tượng.

Giai đoạn sản xuất: Là quá trình viết dàn bài chi tiết dựa trên nguyên liệu đã có được, đánh dấu phần quan trọng cần nhấn mạnh cùng với các ví dụ cụ thể. Cùng với đó, việc sắp xếp các triệu chứng bệnh theo nhóm dựa trên cơ chế sinh bệnh là một việc rất cần thiết bởi trong sách các triệu chứng thường được kể ra hàng loạt khiến sinh viên khó nhận biết, phân biệt được triệu chứng chính và phụ. Phương pháp trình bày phải bắt đầu từ dễ tới khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thể điển hình đến thể ít gặp. 

Giáo sư Đặng Văn Chung đặc biệt nhấn mạnh việc lấy kiến thức về cơ thể bệnh và sinh lý bệnh để làm cơ sở cho nội dung các bài giảng bệnh học nội khoa, “nhằm giúp cho sinh viên dễ nhớ, dễ thu nhận mà vẫn không hạn chế khả năng suy nghĩ của sinh viên”[4]. Ông có đưa ra nhiều ví dụ để minh chứng cho kinh nghiệm của mình, chẳng hạn: “Bài hẹp lỗ van 2 lá thì bắt đầu lỗ van 2 lá bình thường như thế nào? Khi nào gọi là hẹp? Khi hẹp sẽ có hậu quả sinh lý, huyết đông như thế nào? Như vậy, các triệu chứng của hẹp 2 lá đã được dựa trên cơ sở giải phẫu bệnh lý và sinh lý nên người nghe sẽ hiểu sâu, nhớ lâu…”[5]

Giai đoạn kiểm tra sản phẩm: Rà soát, đối chiếu với tài liệu chuyên môn để loại bỏ những nội dung chưa chuẩn, bổ sung những thiếu sót, đồng thời sắp xếp và phân bố thời gian giảng bài cho từng nội dung.

Ngày 23-08-1971, trong buổi nói chuyện với cán bộ giảng dạy Quân y Viện 103, Giáo sư Đặng Văn Chung chia sẻ: “Bài giảng không phải một bài chép từ trong sách ra rồi đọc mà là một bài tự cấu tạo, phải là một món ăn mà thầy nấu nướng có kỹ thuật – từ những thức lấy trong sách vở và kinh nghiệm của bản thân”.

2. Thuyết giảng trên lớp

Giáo sư Đặng Văn Chung nhận định rằng người có kỹ thuật cao nhất trong nghề chưa hẳn đã là người giảng viên tốt nhất. Bởi vì có những người rất giỏi về chuyên môn nhưng khi đứng trên bục giảng lại mắc khiếm khuyết trong nghiệp vụ sư phạm. Để khắc phục tình trạng đó, trước hết người giảng viên cần phải chọn lọc, sửa đổi, sắp xếp bài giảng cho phù hợp với đối tượng và mục đích từng đề tài nhằm nêu bật lên trọng tâm của vấn đề. Một bài giảng tốt cần phải có đủ 2 tiêu chí:

 Về hình thức: Lời giảng cần rõ ràng, mạch lạc. Chất giọng cần to – nhỏ – nhanh – chậm tùy từng vấn đề. Sử dụng các danh từ một cách chính xác, tránh gây hiểu lầm nhằm giúp cho sinh viên “nhớ được ngay điểm chính, đầu óc thư thái chứ không phải đầu óc rối bù vì quá nhiều chi tiết, quá nhiều con số…”[6]. Giáo sư Chung luôn yêu cầu người giáo viên phải nên “giảng bài” chứ không “đọc bài”, những nội dung viết trên bảng cần phải to – rõ – đúng. Ông nhấn mạnh việc cần thiết phải minh họa bài giảng bằng các giáo cụ trực quan như tranh, ảnh, phim, mô hình…

Về nội dung: Bài giảng phải đầy đủ, đúng trọng tâm, phản ánh được kiến thức cổ điển và hiện đại; khái quát được tình hình bệnh tật ở trong nước nhằm minh họa thêm cho bài giảng, “không nên gây hoang mang cho sinh viên trẻ vì quá nhiều chi tiết, quá nhiều ý kiến đối lập”[7]. Bên cạnh đó người giảng viên phải nêu được những vấn đề còn tồn tại, thiếu sót của y học để khơi gợi sự tìm tòi và phát huy khả năng nghiên cứu khoa học của sinh viên. Bài giảng tốt cần thể hiện được phương châm Y học xã hội chủ nghĩa và phương châm giáo dục của ngành.

Giáo sư Đặng Văn Chung luôn khuyến khích việc đưa ra các ví dụ minh họa trong bài giảng và cho rằng đó là điều vô cùng cần thiết. Những ví dụ đưa ra cần trung thực, đúng mức, không nên lấy ý kiến chủ quan của mình để áp dụng vào bài giảng, bởi theo ông “chủ quan thường là không đúng sự thật”[8].

Giáo sư Đặng Văn Chung và các học trò
trong dịp Kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam, 20-11-1996, tại Bệnh viện Bạch Mai 

Không chỉ quan tâm đến kỹ thuật thuyết giảng mà GS Đặng Văn Chung còn đặc biệt nhấn mạnh đến tư cách và phong thái của người thầy. Trong một bản thảo viết vào tháng 12-1954, Giáo sư Đặng Văn Chung bày tỏ: “Thầy phải là mô hình cho trò: mẫu mực, thị phạm, không sợ cực, không sợ bẩn, không nên lười, qua loa…”[9]. Hầu hết các buổi trao đổi kinh nghiệm tại các lớp bồi dưỡng cán bộ giảng dạy, Giáo sư Đặng Văn Chung đều đề cập tới tiêu chuẩn của người giáo viên. Điều kiện đầu tiên phải là một người có đạo đức, gương mẫu, có uy tín và kinh nghiệm trong nghề nghiệp và không ngừng tu dưỡng, học tập để bồi dưỡng thêm về đạo đức, chuyên môn. Ngoài ra, cần phải có khả năng truyền đạt kiến thức và thực sự đam mê, tâm huyết với nghề: “Phải là người biết và muốn hy sinh cho thế hệ trẻ, phục vụ thế hệ trẻ”[10]. Bên cạnh đó, người giáo viên phải luôn tôn trọng kỷ luật giảng dạy từ việc lên lớp đúng giờ, chuẩn bị bài giảng một cách chu đáo, cẩn thận… Một điều khá quan trọng mà ông thường nhắc nhở chính là việc nắm bắt tâm lý cũng như tình hình trật tự của thính giả trong quá trình giảng bài, từ đó có thể điều tiết và cân đối giờ giấc, nội dung bài giảng một cách có hiệu quả. Chẳng hạn như việc tiết chế các cơn buồn ngủ của sinh viên trong đầu giờ chiều mùa hè, hay sự mất tập trung vào cuối buổi học…

Trong bài viết của PGS.TS Hoàng Minh về Giáo sư Đặng Văn Chung với tiêu đề “Người thầy của nhiều thế hệ” được in trên tờ  Sức khỏe và đời sống vào dịp đầu Xuân Mậu Dần (1998), có đoạn: “Là nhà lâm sàng học lớn của đất nước, đồng thời là một giáo sư, ông không chỉ quan tâm đến việc giảng dạy, biên soạn các sách giảng dạy cho đại học và trên đại học, ông còn luôn quan tâm đến việc đào tạo, bổ túc cho các cán bộ Y tế cơ sở, cho các y sĩ xã… Giáo sư Đặng Văn Chung thực sự là người thầy của nhiều thế hệ thầy thuốc nội khoa Việt Nam.

GS.TS Nguyễn Khánh Trạch cảm nhận sâu sắc: “Hiếm có một con người nào, mà ở đó hai nghề cao quý (thầy giáo – thầy thuốc) lại hòa nhập với nhau một cách hài hòa, đẹp đẽ, hai nhân cách thầy giáo và thầy thuốc cùng nổi bật ngang tầm nhau, cùng hòa quyện vào nhau trong một tâm hồn, trong một ý chí, trong một trái tim”[11].

Đến nay, mỗi khi có dịp phỏng vấn các nhà khoa học đã được đào tạo và trưởng thành từ trường Đại học Y Hà Nội, chúng tôi lại được nghe những câu chuyện đầy thú vị và sự khâm phục về quá trình học tập, tình thầy trò và những kỷ niệm sâu sắc không thể nào quên trong ký ức mỗi người. Trong nỗi niềm “ôn cố tri tân” ấy, hình ảnh người thầy Đặng Văn Chung luôn hiện hữu và được nhắc nhớ với lòng tri ân thành kính. 

Đỗ Minh Khôi

_______________________

[1]; [2]; [7]; [8]; Trích trong bản thảo “Vài kinh nghiệm về giảng dạy”.

[3]; [4]; [5]; [6]; Trích trong bản thảo “Kinh nghiệm soạn bài giảng”.

[9] Trích trong bản thảo “Một số nguyên tắc cơ bản trong bổ túc cho cán bộ Y tế Sau đại học”, tháng 12-1954.

[10] Trích trong bản thảo “Vài Nguyên tắc về Sư phạm”.

[11] Trích trong bài viết “Dấu ấn Đặng Văn Chung”, đăng trên báo Nhân dân, nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11-1992.