Những kiến giải về Y tế nước nhà qua nửa thế kỷ

                Vào tháng 5-1961, khi đó GS Tôn Thất Tùng đang giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế, kiêm Giám đốc của Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt – Đức) được Nhà nước Việt Nam cử sang tham quan và học tập kinh nghiệm tại Liên Xô. Đoàn công tác gồm có đồng chí Bùi Công Trừng (khi đó là Phó Chủ nhiệm Ủy ban khoa học Nhà nước), đồng chí Vũ Văn Cẩn (sau là Bộ trưởng Bộ Y tế) và một số cán bộ khác. Chuyến thăm của đoàn cán bộ Việt Nam diễn ra từ ngày 3-5 đến ngày 30-5-1961. Nhiệm vụ của đoàn cán bộ được GS Tôn Thất Tùng viết rõ trong nhật ký của mình: “Nhờ Liên Xô giúp đỡ việc thành lập Viện nghiên cứu tổng hợp; giúp đỡ kế hoạch năm năm nghiên cứu của Việt Nam; Ký một hiệp định giữa Hàn lâm Viện Khoa học Liên Xô và Ủy ban khoa học Nhà nước; Học tập nước bạn về tổ chức và lãnh đạo Nghiên cứu khoa học; nhờ nước bạn Liên Xô đào tạo giúp các cán bộ nghiên cứu”[1].

Những trang trong cuốn Nhật ký được GS Tôn Thất Tùng viết khi thăm Liên Xô, 5-1961

            Đoàn cán bộ Việt Nam đã đến thăm các Viện nghiên cứu như ở Mátxcơva, Lêningrat, Tashkent; Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Y học nhiệt đới do đồng chí Serguief làm Viện trưởng, Viện Phẫu thuật lồng ngực do GS Kalesnicof làm Viện trưởng, Viện Vi sinh vật và dịch tễ học, Viện Ăn uống, Viện Nghiên cứu các kháng sinh mới, Viện Ung thư,… Trong chương trình làm việc, đoàn cán bộ ta đã có những buổi gặp gỡ, trao đổi với các vị lãnh đạo của một số cơ quan, tổ chức của nước bạn, như Chủ tịch Viện Hàn lâm Y học quân sự Trung ương Goldarol. Trong chuyến đi, GS Tôn Thất Tùng đã hết sức chú ý ghi chép lại những gì thấy, đã thu hoạch được khi thăm các cơ sở nghiên cứu về Y tế của Liên Xô, từ số lượng giường bệnh, máy labo, máy tim phổi, tình hình bệnh nhân,…vấn đề đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và mối quan hệ với đào tạo nghiên cứu. Ông đặc biệt chú ý tới các kinh nghiệm của Liên Xô trong một số vấn đề: Tổ chức và phương pháp chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học Y học Xô viết; Quá trình phát triển tổ chức nghiên cứu khoa học; Tính chất liên hiệp phức tạp trong Y học hiện đại Xô viết; Vấn đề cán bộ nghiên cứu khoa học ở Liên Xô.

           Qua chuyến thăm Liên Xô này, đặc biệt là qua các buổi tọa đàm với những cán bộ trong Đoàn Chủ tịch Viện Hàn lâm Y học Liên Xô, với các nhà bác học tại một số Viện nghiên cứu Y học, GS Tôn Thất Tùng đã có những liên hệ thực tế vào hoàn cảnh của Việt Nam. Những phân tích của ông với cương vị của người quản lý đồng thời là người làm khoa học, trực tiếp cứu chữa bệnh nhân đến bây giờ vẫn còn những giá trị nhất định.

GS Tôn Thất Tùng (đứng giữa) cùng các đồng nghiệp tại Bệnh viện Phủ Doãn, khoảng những năm 60.

             Nhìn lại tình hình Y tế của Việt Nam, ngoài việc khẳng định những thành tựu khả quan mà ngành Y tế đã đạt được lúc bấy giờ, GS Tôn Thất Tùng cũng đã nêu ra những vấn đề tồn tại và cần giải quyết trong quá trình xây dựng một nền Y học nước nhà.

            Thứ nhất, Y học nước ta chưa giải quyết được tốt mâu thuẫn giữa công tác phục vụ và công tác nghiên cứu, huấn luyện trong hoàn cảnh đất nước khó khăn, chiến tranh diễn ra ác liệt ở miền Nam. GS Tôn Thất Tùng dẫn ra bằng chứng là trong nhiều năm trường Đại học Y Dược Hà Nội vẫn chưa được củng cố để có thể làm một lúc hai nhiệm vụ huấn luyện và nghiên cứu khoa học. Số cán bộ giảng dậy ít ỏi của trường không đủ để đảm bảo công tác giảng dậy, nói gì đến công tác nghiên cứu khoa học. Đối với các cán bộ nghiên cứu ở Viện thì không có thời gian tối thiểu để làm nghiên cứu một cách liên tục mà phần lớn thời gian của họ bị ngốn vào công tác phục vụ hàng ngày. Ngoài ra, cũng chưa đặt vấn đề đào tạo một đội ngũ cán bộ nghiên cứu cho tương lai và cũng chưa tạo điều kiện, khắc phục những khó khăn cho những cán bộ có khả năng nghiên cứu[2].

           Thứ hai, trong công tác tổ chức nghiên cứu khoa học, trường Đại học Y Dược khoa chưa đóng góp vai trò thích đáng, các Viện nghiên cứu còn quá sơ sài. GS Tôn Thất Tùng chỉ ra rằng trường Đại học Y chưa có định hướng để trở thành một trung tâm huấn luyện và nghiên cứu; Lực lượng cán bộ tập trung tại trường chiếm số lượng không nhỏ, nhưng chưa đủ sức để làm tròn nhiệm vụ huấn luyện và do đó cũng đồng thời chưa làm tròn công tác nghiên cứu của mình. Ông cũng phân tích thêm là do sự chỉ đạo chưa cụ thể của trường nên công tác nghiên cứu chưa được tổ chức một cách có kế hoạch, cán bộ giảng dạy chưa có tác phong thường xuyên gắn liên công tác giảng dạy với công tác nghiên cứu. Bên cạnh đó, đội ngũ sinh viên chưa được tổ chức, hướng dẫn để tham gia vào nghiên cứu khoa học của nhà trường.

            Trên thực tế, vào thời điểm năm 1961, nước ta có 6 Viện: Sốt rét, Lao, Đông Y, Vệ sinh Dịch tễ, Mắt và Dược liệu. Những Viện này ra đời là rất cần thiết để giải quyết những vấn đề rất cấp bách của y tế trong nước. Nhưng, theo GS Tôn Thất Tùng với hoàn cảnh thiếu cán bộ và thiết bị còn hạn chế, mỗi Viện tuy đều có cán bộ trình độ cao chủ trì, song số đó lại rất ít. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác nghiên cứu[3].

            Vấn đề thứ ba mà GS Tôn Thất Tùng rất quan tâm là sự chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học chưa được tổ chức một cách chặt chẽ, bài bản. Bằng chứng là hàng năm chúng ta có kế hoạch nghiên cứu khoa học nhưng kế hoạch đó hầu hết là do các cơ sở dưới đề đạt lên, sau đó cấp quản lý bên trên tổng hợp lại một cách đơn thuần. Vì vậy kế hoạch có tính chất tản mạn không tập trung giải quyết được những vấn đề quan trọng và cấp bách nhất ở tầm vĩ mô. Hội đồng Khoa học của Bộ Y tế và Ban Y học là hai tổ chức có chức năng chỉ đạo công tác nghiên cứu, nhưng thực chất cũng chỉ là một, thành phần gần như nhau. Cả hai tổ chức này đều không hoạt động và sinh hoạt đều đặn, các thành viên bận rất nhiều việc, vì vậy thời gian dành cho tổ chức chỉ đạo chức trách hầu như rất ít .[4]

            Căn cứ vào những yếu điểm và tồn tại đã phân tích, GS Tôn Thất Tùng thấy cần thiết phải cải tiến ngay công tác nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu. Ông đã đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm khắc phục những nhược điểm đó.

            Việc trước tiên, GS Tôn Thất Tùng đề xuất là: “Cần thống nhất về chủ trương lúc này là phải thực sự đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, làm cho công tác nghiên cứu khoa học trở thành một nhu cầu thường xuyên trong công tác của mỗi cán bộ, mỗi tổ chức y tế, nhưng mỗi người, mỗi tổ chức đều phải tiến hành nó với một tinh thần thận trọng có phương pháp và theo một kế hoạch hay một phương hướng thống nhất từ trên xuống dưới”. Ông giải thích thêm: “Vì công tác y tế trước mắt còn rất bận rộn mà số cán bộ còn đang ít, việc mở rộng chỉ nhằm mục đích gây ý thức và xây dựng phương pháp là chủ yếu, còn nghiên cứu sâu một số vấn đề cần được tổ chức một cách có trọng điểm, nghĩa là dồn lực lượng vào trường đại học và một số Viện”.[5]

            Đối với các cơ sở đào tạo, đặc biệt là trường Đại học Y, để phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu thì cần được kiện toàn về các mặt tổ chức cán bộ, bổ sung các thiết bị máy móc để có thể có đủ điều kiện làm việc. Cần giải quyết mâu thuẫn giữa công tác giảng dậy và nghiên cứu, tăng cường đào tạo cả cán bộ giảng dậy và cán bộ nghiên cứu, động viên được toàn trường cùng nghiên cứu một số vấn đề cấp bách, chống các khuynh hướng phân tán và cục bộ. Đối với các Viện nghiên cứu “Cần xem xét kỹ lại tổ chức biên chế, xác định nhiệm vụ phục vụ và nhiệm vụ nghiên cứu, bố trí một cách cân đối lực lượng phục vụ và nghiên cứu. Tất nhiên phải có kế hoạch củng cố từng bước mỗi Viện nhất là về cán bộ. Trong các cán bộ hiện đang công tác ở các địa phương, nếu phát hiện được ai có khả năng về một vấn đề gì có liên quan đến các Viện trên thì nên có kế hoạch điều chỉnh: lấy cán bộ trẻ mới tốt nghiệp đại học thay thế để điều họ về các Viện. Tại mỗi Viện xác định kế hoạch nghiên cứu và cũng chỉ nên tập trung vào giải quyết một số vấn đề chủ yếu nhưng làm một cách thận trong, chu đáo, lấy chất lượng là chính”[6]. Đồng thời ông cũng đề xuất phải tăng cường thêm trang thiết bị, thành lập thêm một số Viện mới: Viện Phẫu thuật, Viện Ung thư, Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em, Viện Nha khoa (vấn đề này cũng được đề xuất trong kế hoạch 5 năm của Bộ Y tế), tuy nhiên các công việc này phải làm một cách chu đáo, tỉ mỉ.

Đi vào các vấn đề cụ thể, GS Tôn Thất Tùng nhấn mạnh công tác y tế phải đối chiếu với nhu cầu thực tế của nhân dân, cần phải chú ý đến các bệnh truyền nhiễm: “cần phải xây dựng hệ thống các Bệnh viện và Khoa Truyền nhiễm ở khắp nơi và ở Hà Nội, nên phát triển Khoa Truyền nhiễm của Bạch Mai để trong một thời gian ngắn xây dựng thành một bệnh viện truyền nhiễm tiến tới thành lập một Viện nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm ở nước ta”[7].

Vấn đề quan trọng nhất để thực hiện các giải pháp về nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu là con người. GS Tôn Thất Tùng coi đó là vấn đề mấu chốt nhất, do vậy việc đào tạo cán bộ nghiên cứu phải được quan tâm đặc biệt. Ông đề xuất: “Đối với một số cán bộ hiện nay có trình độ cao, có kinh nghiệm thực tế, lại có khả năng nghiên cứu như các giáo sư đại học nên tạo mọi điều kiện cho các đồng chí này được chuyển sang công tác nghiên cứu là chính và đào tạo cán bộ nghiên cứu và cán bộ chuyên khoa. Có thể bắt đầu chế độ nghiên cứu sinh để đào tạo một số cán bộ cho các Viện và trường Đại học. Cần chọn lọc kỹ… Nên chọn một số trẻ xếp vào các Viện và trường làm nghiên cứu sinh ngay từ đầu để sau 5 năm có thể làm công tác nghiên cứu… Cũng không thể không chú ý đào tạo các loại cán bộ trung cấp kỹ thuật cho các phòng thí nghiệm”.[8]

Bằng thực tế nhận thức được qua đợt công tác tại Liên Xô, cuối cùng, GS Tôn Thất Tùng đưa ra một khả năng có thể đẩy mạnh công tác nghiên cứu trong nước là: “Có thể dễ dàng đề nghị với các nước anh em phổ biến cho chúng ta kết quả của những vấn đề lý luận cơ bản đã được nghiên cứu rồi. Ngay đối với một số vấn đề ứng dụng thực tiễn chúng ta cũng có thể dùng nhiều những kết luận của các nước anh em. Do đó cũng đỡ được nhiều thời gian và sức lực của ta và với số cán bộ ít ỏi ta sẽ tập trung và giải quyết một vấn đề mà chỉ có chúng ta mới có nhiệm vụ và điều kiện để làm, đó là nghiên cứu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới đến con người Việt Nam, sử dụng các thành tựu khoa học y học hiện đại vào điều kiện khí hậu nhiệt đới đó”[9].

Trên cơ sở phân tích thực trạng của ngành Y tế như vậy, GS Tôn Thất Tùng đã đề xuất với Bộ Y tế giải quyết  một số vấn đề bất cập trong nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu Y học Việt Nam, phục vụ con người trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn và chiến tranh ác liệt. Những kiến giải, từ thực tế những năm 60 của Y tế nước ta đến nay vẫn còn những giá trị nhất định tuy đã hơn nửa thế kỷ trôi qua.

Nguyễn Thanh Hóa

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

Tài liệu tham khảo:

1.    Nhật ký đi thăm Liên Xô của GS Tôn Thất Tùng, 5-1961.

2.    Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 8-1961.

3.    Bản góp ý kiến của Viện Hàn lâm Y học Liên Xô về Kế hoạch nghiên cứu khoa học từ năm 1961 đến 1965 trong lĩnh vực Y học (Do Ủy ban Khoa học nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trình bày).

4.    Đường vào khoa học của tôi. H- Kim đồng, 2008.

 

[1] Trích Nhật ký của GS Tôn Thất Tùng (thời gian đang ở thăm Liên Xô), tháng 5-1961

[2] Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.10

[3] Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.11

[4] Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.11

[5] Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.11

[6] Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.12

[7] Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.13

[8] Báo cáo của nhóm Y học trong Đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.14

[9] Báo cáo của nhóm Y học trong đoàn khoa học Việt Nam đi thăm Liên Xô, 5-1961, tr.15