Nỗ lực cuối cùng của một nhà khoa học

Sinh thời, GS Tôn Thất Tùng thường được Thủ tướng Phạm Văn Đồng quan tâm, thăm hỏi thường xuyên. Về công việc, ông luôn được Thủ tướng ủng hộ và tạo điều kiện để hoàn thành một cách tốt nhất.

Vào tháng 10-1981, GS Tôn Thất Tùng nhận được điện thoại trực tiếp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, yêu cầu ông xem lại các phim tư liệu của Nhật nói đến tác hại của chất diệt cỏ trong chiến tranh ở Việt Nam. Rồi viết một bản báo cáo gửi lại cho Thủ tướng và nói rõ các nhận định của bản thân về nội dung phim. Ngày 25-10-1981, GS Tôn Thất Tùng đã gửi tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng một bản báo cáo, trong đó nội dung được nhắc đến nhiều nhất là các vấn đề về dioxin ở Việt Nam.

Trong bản báo cáo gửi tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng, GS Tôn Thất Tùng bày tỏ hai dòng cảm tưởng “vui và tủi, vui rất nhiều nhưng tủi cũng mênh mông”. Trước hết, vui vì đất nước ta đã trải qua một cuộc chiến tranh khốc liệt, tương tự một cuộc chiến tranh nguyên tử về số lượng bom đạn và sức tàn phá của nó. Ở Nhật, trung bình cứ 5 ngày một quả bom kiểu bom nguyên tử đã tàn phá Hiroshima suốt 7 năm liền như vậy. Còn ở Việt Nam, trong suốt cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm với 8 năm sử dụng vũ khí hóa học, Mỹ đã hủy diệt môi trường, đất đai, hệ sinh thái mà mức độ của nó cho đến bây giờ cũng khó có thể đánh giá hết được. Đó là chưa kể đến hậu quả trực tiếp đến con người, gây nên những bệnh hiểm nghèo qua nhiều thế hệ.

GS Tôn Thất Tùng thăm hỏi bệnh nhân ở Bệnh viện Việt – Đức

Nhưng, Việt Nam đã vượt qua tất cả bằng truyền thống, bằng tinh thần đoàn kết triệu người như một để làm cuộc giải phóng dân tộc thần kỳ. GS Tôn Thất Tùng nhấn mạnh: “Chúng ta đã thắng Mỹ không phải chỉ về quân sự mà còn cả về khoa học nữa, tuy chúng ta ở trong một tình thế khoa học vô cùng lạc hậu về cơ sở và hiểu biết. Chúng ta đã nói trước các nhà khoa học thế giới (mười năm trước) những tai hại và thảm họa mà chiến tranh diệt cỏ sẽ dành cho nhân dân ta và chỉ 10 năm sau các nhà khoa học Âu Mỹ mới tìm thấy lại”[1].

Bản báo cáo đã cho chúng ta biết thêm những thông tin về quá trình mà GS Tôn Thất Tùng đã theo đuổi để chứng minh về thảm họa dioxin từ năm 1969 đến năm 1981. Đó là cuộc đấu tranh mà, thời kỳ đó, ông luôn nhận được chia sẻ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông viết: “Ngay vào cuối năm 1970, ở Hội nghị D’ Orsay, Paris chúng tôi đã kết luận báo cáo của chúng tôi như sau: “Chưa có một tai họa bi thảm nào như tai họa này đang chờ đợi dân tộc Việt Nam, trừ chiến tranh nguyên tử”. Dự báo có cơ sở khoa học này, mà một nhà báo người Anh 10 năm sau đã nhắc lại – lúc đó không có ai tin cả (kể cả các nhà khoa học của Đảng Cộng sản Pháp và Viện Hàn lâm Y học Liên Xô), cũng như các lãnh đạo ta trừ anh Đồng – người đã cổ vũ, giúp đỡ tôi và đứng hẳn về phía tôi trong việc tranh luận về tai hại của chiến tranh hóa học này. Anh Đồng là người lãnh đạo duy nhất đã bày vẽ rõ rệt cho tôi về đường lối để nghiên cứu các tai hại này (phát hiện vấn đề, nhận rõ tai hại, đề phòng và chữa chạy cho nhân dân), trong khi mọi ngành có trách nhiệm về vấn đề này lại rất thờ ơ”[2].

Giáo sư Tôn Thất Tùng nhấn mạnh ảnh hưởng của chất diệt cỏ tới các thế hệ tương lai của dân tộc về các mặt: thần kinh học, phôi thai học, di truyền học và bệnh lý thần kinh. Ông dẫn ra kết quả nghiên cứu của trường Đại học Monash, Autralia năm 1981: các trứng gà nhiễm dioxin làm thay đổi thái độ và hoạt động của gà con sau khi nở. Ông đề xuất trong báo cáo: “Nghiên cứu về tinh thần và tâm lý các thế hệ trẻ ở miền Nam hay các quân nhân, cán bộ ta đã nằm ở các vùng bị ô nhiễm là rất cần. Các thương tổn trên phôi thai xúc phạm đặc biệt đến tủy sống và não….”[3].

Trong cuộc đấu tranh vạch trần thảm họa dioxin ở Việt Nam mà GS Tôn Thất Tùng là một người đi tiên phong, ông đã gặp phải muôn vàn những khó khăn, trở ngại cả ở trong nước và quốc tế. Điều đó khiến ông phải dùng chữ “Tủi” khi gửi những dòng cảm tưởng của mình tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Lịch sử đã đi qua, người ta không thể sống mãi với quá khứ hoặc quay trở lại trách móc nó, nhưng lịch sử vốn là khách quan, và sự thật cần phải trả về với cái nó vốn có. Bản báo cáo đã mở ra ít nhiều thông tin về một thời kỳ kiên trì đấu tranh chống lại thảm họa dioxin của GS Tôn Thất Tùng.

Giáo sư Tôn Thất Tùng viết: “Tôi là một người khoa học, tôi rất sung sướng làm khoa học và muốn nước ta có một khoa học vững mạnh. Nhưng khi làm việc cụ thể, tôi nhận thấy khoa học nước ta yếu đuối quá…. Tin tưởng vào một lý tưởng khoa học không những là am hiểu về khoa học, vì khoa học cần phải chứng minh chứ không phải đi tuyên truyền và cần phải làm nhiều nói ít. Sự thật không phải là do sự muốn của chúng ta tạo ra mà phải xuất hiện từ những điều kiện khách quan”[4]. GS Tôn Thất Tùng cho rằng, chúng ta dễ dàng lẫn lộn giữa tuyên truyền với sự việc quan trọng là chứng minh. Ông khẳng định vào thời điểm những năm 70 của thế kỷ XX, nhiệm vụ của “Ủy ban Quốc gia nghiên cứu kết quả hoạt động các chất diệt cỏ” không nên chỉ là một Ủy ban tố cáo tội ác của Mỹ, mà ông cho rằng nó phải được hoạt động như một Ban nghiên cứu khoa học. 

Giáo sư Tôn Thất Tùng cũng thẳng thắn chỉ ra những yếu điểm khi nghiên cứu ảnh hưởng của các chất diệt cỏ dioxin trong giới khoa học ở Việt Nam thời bấy giờ. Ông viết: “Các nhà khoa học của ta nói về diệt cỏ chỉ biết phần tố cáo tội ác mà không chứng minh gì cả. Đó là kết quả của một quá trình tài tử trong nghiên cứu khoa học, không biết phương pháp làm việc và các ràng buộc của quy luật khách quan trong nghiên cứu”[5].

Nhưng đó vẫn chỉ là sự yếu kém về mặt năng lực chuyên môn trong nghiên cứu, ở một mặt khác, sự yếu kém trong cơ chế quản lý đã vô hình chung gây cản trở cho những người nghiên cứu khoa học. GS Tôn Thất Tùng lấy ra một ví dụ hết sức cụ thể, đó là việc ông không làm thế nào chứng minh được sự tồn tại của dioxin trong đất thời gian chiến tranh Việt Nam. Dạo đó, ông đến Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước để xin mang đất ở miền Nam đi làm thí nghiệm nhưng ông được trả lời đại ý rằng: Hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu của ông. Đó là khâu khó nhất để ông thực hiện những nghiên cứu của mình.

Trong bản báo cáo, GS Tôn Thất Tùng cũng khá gay gắt khi phê phán sự yếu kém trong quản lý khoa học của một số cơ quan, bộ phận có trách nhiệm, phê phán tính thiếu chủ động trong nghiên cứu… Còn về mặt đạo đức trong làm khoa học ông cũng kịch liệt phê phán và dẫn ra việc có người không ngần ngại lấy kết quả nghiên cứu của người khác, hoặc bạn bè, hoặc học trò để ngụy trang cho sự thiếu hiểu biết của mình. Ông chưa thấy có một tài liệu nào sâu sắc và có giá trị nói về ảnh hưởng của các chất diệt cỏ đối với môi trường Việt Nam qua những nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam được gửi tới ông.

Chính thực trạng nghiên cứu về vấn đề dioxin làm GS Tôn Thất Tùng thực sự lo lắng đồng thời đưa ra kiến nghị Đảng và Nhà nước cần quan tâm một cách đúng mức về phương tiện làm khoa học, đội ngũ cán bộ và kinh phí nghiên cứu. Ông đề nghị trong bản báo cáo gửi tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Tôi đề nghị các vị có trách nhiệm trong Đảng về vấn đề này họp và cho những chỉ thị mạnh mẽ hơn, phải nhấn mạnh vào sự giúp đỡ cho các cuộc nghiên cứu và điều tra được làm nhanh chóng, vì chúng ta chỉ còn hơn 6 tháng nữa thôi để quyết định có thể họp hay không vào cuối năm 1982 một cuộc Hội thảo quốc tế về Tác hại của các chất diệt cỏ ở thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, tôi muốn Ủy ban điều tra về diệt cỏ được coi là một Ủy ban thuộc Phủ Thủ tướng”[7].

Ngoài ra còn hai điểm quan trọng GS Tôn Thất Tùng quan tâm và đặt ra vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian ngắn. Thứ nhất: “Bộ Ngoại giao ta thiếu nhiều cố vấn về luật quốc tế, mỗi lần dịch tuyên bố một cái gì thì các cán bộ hốt hoảng, không chịu tự nghiên cứu để đáp lại. Đây là vai trò của những người luật sư chứ không phải của người khoa học”[8]. Thứ hai về vấn đề báo chí: “Chính các nhà báo nước ngoài đã đặt lại vấn đề tai hại của các chất diệt cỏ mà câu chuyện lại rùm beng nổi lên. Ở ta, báo chí và đài không hiểu gì cả, khi nào cũng đi theo đuôi dư luận quốc tế”. Ông nhấn mạnh kiến nghị: “Ta cần đào tạo những nhà báo khoa học nhạy bén để tranh thủ dư luận quốc tế. Tất cả chúng ta tuyên truyền đều bị động, không có sáng tạo và trách nhiệm…, không tự động tìm hiểu để phục vụ tích cực hơn nước nhà…”.

Những kiến nghị và đề xuất tâm huyết của GS Tôn Thất Tùng gửi tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhằm chuẩn bị một Hội thảo quốc tế về tác hại của các chất diệt cỏ dự kiến vào cuối năm 1982 tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng nhà khoa học có trách nhiệm và không ngại nói thẳng, nói thật ấy – GS Tôn Thất Tùng đã không còn xuất hiện được nữa trong ngày diễn ra Hội thảo. Ông đã mất (7-5-1982), nhưng những tâm nguyện của GS Tôn Thất Tùng cũng được thực hiện. Hội thảo Quốc tế về chất diệt cỏ đã diễn ra vào tháng 1-1983 tại thành phố Hồ Chí Minh. Tại Hội thảo này người ta nhắc nhiều đến ông và những đóng góp của ông trong cuộc đấu tranh chống dioxin. Bà Vi Thị Nguyệt Hồ – vợ của ông được mời tới tham dự Hội thảo, tại đây bà đã nghẹn ngào phát biểu những cảm tưởng của mình: “Chúng ta họp mặt ở đây chỉ có một mục đích: Tìm, phòng và chữa cho con người, cho môi trường, phòng chữa và giảm bớt đau thương cho các bà mẹ suốt đời mình phải nhìn và nuôi nấng các con mình mang vĩnh viễn các dị tật bẩm sinh cho tác hại của chất diệt cỏ. Hôm nay tại đây tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ tới người bạn đời và cũng là một trong những người Việt Nam đầu tiên mò mẫm đi vào con đường mới mẻ này đã bỏ nhiều công sức của mình với mục đích giảm bớt những bệnh tật cho dân tộc mình, một dân tộc anh dũng và can đảm đã hy sinh rất nhiều để dành lại độc lập cho Tổ Quốc. Xin cám ơn Westing đã thực hiện ý muốn của người đã khuất. Cá nhân tôi xin tỏ lòng mến phục tất cả các nhà báo, phóng viên đã bền bỉ theo dõi vấn đề này với ngọn bút đã thức tỉnh những con người còn lương tâm thấy trách nhiệm của mình đối với nhân loại….”[9]

Con đường khoa học không bằng phẳng, như GS Tôn Thất Tùng đã từng nói rất nhiều lần, nó là sự nổi dậy của tư duy. Người làm khoa học không được buông xuôi mà cần có tư duy sáng tạo, vươn tới những tiến bộ của thời đại, phục vụ tốt nhất con người. Những vấn đề cụ thể GS Tôn Thất Tùng nói ở trên chắc chắn gợi mở nhiều điều cho những người làm công tác khoa học hiện nay.

Nguyễn Thanh Hóa

__________________

[1] Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.2.

[2] Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.2.

[3] Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.3.

[4] Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.3.

[5] Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.4.

[6] Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.4-5.

[7 Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.5.

[8] Trích Bản báo cáo gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, 10-1981, tr.5.

[9] Trích bản ghi chép của Bà Vi Thị Nguyệt Hồ tại Hội thảo Quốc tế về Chất diệt cỏ diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1-1983. Tài liệu này hiện được lưu giữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.