Nữ giáo sư đấu tranh cho hạnh phúc của nữ giới

Cả nhà cùng chống bạo lực gia đình

Ở cái tuổi ngoài 60 nhưng GS Lê Thị Quý vẫn say sưa nghiên cứu khoa học. Chồng bà, GS-TS Đặng Vũ Cảnh Khanh (con trai GS Vũ Khiêu, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thanh niên – GS Vũ Khiêu tên thật là Đặng Vũ Khiêu) luôn là điểm tựa và giúp đỡ bà trong mọi công việc. Cả hai được biết đến là những GS, TS đầu ngành, có nhiều thành công trong khoa học, là những người sẵn sàng lên tiếng vì quyền lợi của phụ nữ, trong đó có phụ nữ bị chồng bạo hành, bị buôn bán sang nước ngoài và phụ nữ hành nghề mại dâm trong xã hội.

Nhiều người nể phục bảo “cặp đôi hoàn hảo” vợ chồng GS Khanh – Quý thuộc “số hiếm” trong các gia đình ở nước ta. Cuốn sách “Gia đình học” tập hợp các bài nghiên cứu về gia đình mà hai vợ chồng làm chung trong suốt mấy chục năm đã trở thành một cuốn tài liệu giá trị cho giới nghiên cứu các vấn đề về gia đình. Con trai bà, Th.S Đặng Vũ Cảnh Linh cũng tham gia viết chung cuốn sách nghiên cứu: “Bạo lực gia đình, một sự sai lệch giá trị”, đồng thời giúp bà hoàn thành các mô hình phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) ở Thái Bình, Nam Định.

Vợ chồng GS Lê Thị Quý và GS Đặng Vũ Cảnh Khanh.

Cơ duyên khiến GS Lê Thị Quý gắn bó với nữ quyền cũng bắt nguồn từ… hạnh phúc của gia đình. Suốt đời cống hiến cho sự nghiệp khoa học, cũng có lúc gia đình sống xa nhau, nhưng chồng bà vô cùng tâm lý và yêu thương vợ. Ông chưa to tiếng nặng lời với vợ con một lần nào. Chính cách dạy con của GS Quý khiến cho bà luôn đặt câu hỏi: “Tại sao có người đã từng thừa sống thiếu chết quyết bảo vệ tình yêu, đến khi lấy nhau rồi còn phũ phàng đánh đập nhau? Tại sao người ta có thể nhẫn tâm với người vợ bao nhiêu năm đầu gối tay ấp?… ”. Vị GS không thể ngồi im trước nạn bạo hành. Bà kiên quyết tìm ra nguyên nhân và ngăn chặn bạo lực trong gia đình, bảo vệ những người phụ nữ yếu đuối trước ngón đòn vũ phu của chồng.

Gọi cộng đồng vào cuộc

Luật Phòng, chống BLGĐ có sự tham vấn của GS Quý về những vấn đề lý luận khoa học và thực tiễn, trong đó, mô hình thành lập các địa chỉ tin cậy ở các địa phương trực tiếp giúp nạn nhân bạo hành chính là sáng kiến áp dụng từ mô hình của dự án phòng, chống BLGĐ từ cơ sở của bà thực hiện cách đây 10 năm. “Thực tế còn rất nhiều vụ bạo hành đang âm thầm diễn ra, kể cả những hình thức bạo lực không nhìn thấy được mà vô hình trung, người ta coi đó là thiên chức, trách nhiệm của người phụ nữ khi lấy chồng” – GS Quý trăn trở.

Ở thập niên 1990, GS Quý đã đưa ra khái niệm về hai dạng BLGĐ ở Việt Nam: Dạng bạo lực nhìn thấy được (đánh đập, gây thương tích trên cơ thể) và bạo lực không nhìn thấy được (bạo lực tình dục, kinh tế, lao động). Bạo lực nào cũng đáng lên án và ngăn chặn, nhưng bạo lực không nhìn thấy được còn nguy hiểm gấp vạn lần, bởi quan niệm của người dân Việt Nam hồi đó, vẫn còn coi việc “chiều chồng”, chăm sóc chồng là nghĩa vụ của người đàn bà khi đã “theo chàng về dinh” mà không biết đó là một hành vi bạo lực. Quan niệm đó khiến người phụ nữ luôn bị ràng buộc, tự chịu đựng mà không biết cách tự giải phóng mình. “Phải nhận diện BLGĐ mới chống được BLGĐ. Phụ nữ cần biết thông tin về giới và nắm rõ luật để bảo vệ mình và dạy bảo con gái trong tương lai nữa” – GS Quý chia sẻ.

Quá trình đấu tranh cho phụ nữ, không ít lần, bà “buồn lây” cho số phận của các chị em. Có người bị đánh vì bận nấu nướng mà chưa kịp… mát-xa cho chồng, có người vợ bị xích ở giường để chồng thỏa sức hành hạ, có người còn bị chồng “lên lịch” tra tấn cứ đều đặn ba ngày sẽ đánh đập một lần… “Xót thương người phụ nữ, căm phẫn hành vi tàn bạo của chồng họ, tôi còn bức xúc vì thái độ của người phụ nữ khi họ không dám lên tiếng bảo vệ mình, coi đó là chuyện “đóng cửa bảo nhau”, chuyện “chồng dạy vợ”” – bà Quý lắc đầu. Hai chân mày bà nhíu lại, như gom hết nỗi đau của người khác vào trong ký ức.

Khi tham quan một số mô hình nhà lánh nạn cho nạn nhân bị bạo hành ở các nước trên thế giới, GS Lê Thị Quý thấy hầu hết các nhà tạm lánh đều giấu địa chỉ, tránh để người chồng tìm đến gây sự. Vô lý, những người bảo vệ cho lẽ phải lại giấu giếm việc làm nhân văn, nạn nhân bạo hành không có lỗi mà phải sống chui lủi, trốn tránh. Bà mong muốn, những mô hình bảo vệ phụ nữ bạo hành ở Việt Nam sẽ được công khai, thúc đẩy cả cộng đồng vào cuộc để “áp đảo” kẻ bạo hành thay đổi hành vi, thái độ. Năm 2002, trong một lần thực hiện đề tài nghiên cứu, khảo sát các trường hợp bạo hành gia đình ở Phú Thọ, bà được tiếp xúc với trường hợp chị C. – nguyên phó chủ tịch hội LHPN của một xã. Chuỗi ngày bất hạnh của chị bắt đầu khi chị kết hôn “nhầm” với một người chồng nghiện ngập. Anh ta coi vợ như người ở và “cái máy đẻ” không hơn không kém. Sau khi ly hôn, cứ tuần ba buổi, anh ta “mò” về giở thói giang hồ với người vợ tội nghiệp. Thậm chí, anh ta thản nhiên “lôi” chị ra giữa sân ủy ban để “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”, giáng những trận đòn tơi tả xuống người đàn bà không còn là vợ mình. Không ai giúp đỡ chị. Thấy cảnh đó, GS Lê Thị Quý vô cùng bức xúc. Xã hội vô tâm thế ư? Vai trò của chính quyền và các tổ chức xã hội ở đâu để nạn nhân cô độc trước tội ác? Tình làng nghĩa xóm ở đâu, sao im lặng thế? Bà nghiệm ra chân lý, chính nam giới mới là lực lượng quan trọng và cơ bản để thay đổi, làm giảm nạn bạo lực trong cuộc chiến phòng, chống BLGĐ và phải lôi “chuyện vợ, chuyện chồng” này ra toàn xã hội cùng chung tay giải quyết.

Nói là làm, bà kêu gọi tổ chức, dự án, để thành lập các mô hình phòng, chống BLGĐ ở các tỉnh Thái Bình, Phú Thọ, Hà Nội. Tại Thái Bình, một số ban quản lý phòng, chống BLGĐ được thành lập ở thị trấn Thanh Nê, xã Vũ Lạc, TP Thái Bình, chính quyền địa phương ký cam kết tham gia. Người dân bị bạo hành hoặc phát hiện vụ bạo hành, địa phương sẽ có trách nhiệm thông báo kịp thời để xử lý. Có ông cụ ngoài 60 tuổi mạnh dạn đón nhận và chăm sóc người vợ bị bạo hành, một mình đối phó với gã chồng say rượu, tay lăm lăm cái rựa chỉ chực lao xổ vào vợ và những người đang cưu mang vợ gã; rất nhiều người sẵn sàng có mặt nửa đêm để giải quyết vụ bạo lực của gia đình trẻ; các CLB phụ nữ, CLB nam giới, CLB những người chồng yêu vợ… được thành lập; 79 địa chỉ tin cậy đặt tại từng nhà dân dành cho phụ nữ bị bạo hành mọc lên, trở thành điểm đến an toàn cho những nạn nhân… Đến nay, ở các xã dự án đã giảm đến 85% vụ BLGĐ, chấm dứt hoàn toàn các vụ BLGĐ gây thương tích nặng…

GS Lê Thị Quý còn là người đầu tiên nghiên cứu nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em sang biên giới. Ngày đó, sự kỳ thị tăng cao, những người bị buôn bán sang biên giới được giải cứu trở về đều bị miệt thị, xa lánh. Nhưng có ai thấu nỗi đau mà họ phải gánh chịu hằng ngày: Có người về nhà với những vết thương chằng chịt trên cơ thể do bị bạo hành, có người ôm con trốn về đất mẹ, có chị đau đớn nhìn chồng súng sính đồ lễ cưới vợ mới… Năm 1994, bà cùng với một số nhà nghiên cứu của Hà Lan, Cam-pu-chia, Thái Lan đã thành lập dự án nghiên cứu về phụ nữ bị buôn bán qua biên giới, giúp họ ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. Thành công được ươm mầm từ càng nhiều khó khăn, thử thách lại càng nhân lên giá trị. Dự án của bà đã giúp đỡ các chị vay vốn không thế chấp, động viên chia sẻ tinh thần,… đồng thời, tuyên truyền thay đổi nhận thức của cộng đồng, đưa vấn đề buôn bán người lên bàn hội thảo trong nước và quốc tế. Nhiều người giờ đã có chồng, sinh con, có gia đình hạnh phúc, làm giàu và tham gia BCH của xã…

Chuông điện thoại reo vang. GS Lê Thị Quý nghe máy, rồi nhỏ nhẹ trao đổi công việc với chồng. Bà cười, nụ cười tỏa sáng khi nghĩ về dự định viết một cuốn sách dành riêng cho tình yêu của hai vợ chồng, sau khi đã viết đến 60 cuốn sách và gần 100 bài báo cho những người phụ nữ khác.

 

Bài và ảnh: Văn Quỳnh Lưu

Nguồn: www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/123/123/123/193018/Default.aspx