Quảng Trị – ký ức không thể nào quên

Từ năm 1971, cục diện chiến trường miền Nam có sự thay đổi mau lẹ: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành được thế chủ động, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ngày càng suy yếu. Chớp thời cơ, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ: “Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972…”[1]. Chấp hành các nghị quyết của Bộ, Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công vào Trị Thiên[2]. Tháng 5-1972, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam giải phóng tỉnh Quảng Trị, trên đường tiến quân vào tỉnh Thừa Thiên thì bị tổn thất nặng. Do đó, chiến dịch chuyển hướng sang phòng thủ giữ vững vùng giải phóng, bởi Quảng Trị là địa bàn có ý nghĩa chiến lược và quyết định thắng bại trên mặt trận ngoại giao của cả hai bên[3].

Những ngày đầu tháng 6-1972, Thượng tá Nguyễn Duy Tường – Chính ủy Sư đoàn 320B và Trung tá – Phó chính ủy Bùi Phan Kỳ cùng Trung đoàn 64 hành quân vào tới Quảng Trị[4]. Trung đoàn 64 chiến đấu ở mặt trận cánh Đông Quảng Trị, sát cánh cùng các đơn vị bạn. Khoảng nửa tháng sau, Chính ủy Nguyễn Duy Tường bị ốm nặng, được đưa ra Bắc điều trị[5]. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320B được Bộ Tư lệnh B5 (tiền phương của Bộ Quốc phòng) giao nhiệm vụ lãnh đạo và chỉ huy mặt trận cánh Đông Quảng Trị, bao gồm nhiều trung đoàn. Bởi vậy, Phó chính ủy Bùi Phan Kỳ phải phụ trách toàn bộ công tác đảng – công tác chính trị và lãnh đạo tác chiến cho các đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh cánh Đông, quyết tâm bẻ gãy cuộc phản công của Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Riêng Trung đoàn 48 được giao nhiệm vụ bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, mỗi chiến sĩ đều khắc cốt ghi tâm khẩu hiệu “48 còn thì Quảng Trị còn”.

Trung tá Bùi Phan Kỳ (thứ 3 từ trái) cùng đồng đội ở Sở chỉ huy mặt trận cánh Đông Quảng Trị, 1972

Trung tá Bùi Phan Kỳ (thứ 3 từ trái) cùng đồng đội ở Sở chỉ huy mặt trận cánh Đông Quảng Trị, 1972

Từng trải qua nhiều trận chiến ác liệt trên chiến trường Tây Thừa Thiên, Phó chính ủy Bùi Phan Kỳ tham mưu cho Bộ Tư lệnh đào hầm Sở chỉ huy bên trong những ngôi nhà vắng chủ, sẽ không bị máy bay trinh sát địch chụp hình, phát hiện. Những ngày trời mưa to, nước sông Thạch Hãn lên nhanh, chảy xiết. Có đêm, hàng chục chiến sĩ vượt sông vào Thành cổ bị trôi dạt…, nhiều người không hẹn ngày trở về. Bến phà Gia Độ – điểm giao thông huyết mạch, thường xuyên bị quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ném bom hoặc bắn pháo. Nhiều đồng chí, đồng đội của ông đã hi sinh ở đây, có cả Phó chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 320B – Nghiêm Kình. Trong “cái khó, ló cái khôn”, dựa vào khả năng bơi lội được rèn luyện thời trai trẻ, ông Bùi Phan Kỳ quyết định tuyển chọn những cán bộ chiến sĩ giỏi bơi lội, thành lập một nhóm tinh nhuệ, cùng ông thực hiện các nhiệm vụ quan trọng: kiểm tra tình hình ở các đơn vị, đốc chiến, họp hành… Và thay vì đi phà, ông yêu cầu các anh em bơi lẻ tẻ qua sông, chọn điểm dừng ở bờ bên kia cách bến phà một khoảng nhất định nhằm hạn chế thương vong.

Khi ấy, mùa gặt lúa đã kết thúc, những cánh đồng trơ trụi gốc rạ. Phần lớn vợ con binh lính Việt Nam Cộng hòa đã rời đi, nhưng người dân địa phương vẫn ở lại. Thực tế đó là một thuận lợi, ông Bùi Phan Kỳ nhắc nhở anh em cải trang giống người dân, đi thành từng tốp nhỏ và thống nhất chọn một mục tiêu phía trước làm điểm tạm dừng, cứ tiếp tục hành quân như vậy cho tới khi đến đích. Để tránh bị phát hiện, ông không chỉ yêu cầu anh em ngụy trang bằng cành lá mà còn chú ý quan sát, hành quân lúc ánh sáng mặt trời làm chói mắt binh lính đối phương trên trực thăng vũ trang. Theo ông, việc lợi dụng triệt để các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa là vô cùng cần thiết trong mỗi cuộc đọ sức. Quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa không thể ngờ rằng, một bộ phận chỉ huy cấp sư đoàn lại có thể đi lại tự do trên chiến trường như thế.

Nhưng có cuộc chiến tranh sinh tử nào tránh được những mất mát đau thương? 81 ngày đêm kiên cường chiến đấu giữ Thành cổ Quảng Trị (28-6 đến 16-9-1972), bao nhiêu máu xương của các chiến sĩ đã đổ xuống. Ta rút quân để bảo toàn lực lượng, Việt Nam Cộng hòa đã tái chiếm được Thành cổ. Dù vậy, ta vẫn kiểm soát khoảng 80% diện tích toàn tỉnh, điều này có ý nghĩa rất lớn trên “bàn cờ chính trị” trong bối cảnh Hội nghị Paris đã bước sang năm thứ tư[6]. Nó tạo thế vững chắc cho đoàn ngoại giao của Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thiết lập trụ sở đón tiếp các phái đoàn của nhiều nước bạn đến trình quốc thư, phái đoàn của Ủy hội Quốc tế giám sát đình chiến ở Việt Nam tới tiếp xúc sau khi Hiệp định Paris được ký ngày 27-1-1973.

Biết Hiệp định Paris sẽ chính thức có hiệu lực từ 8 giờ ngày 28-1, Việt Nam Cộng hòa âm mưu tái chiếm cảng Cửa Việt[7] hòng lật ngược thế cờ. Quân giải phóng một mặt tác chiến phản kích kiên cường, mặt khác thực hiện chủ trương hòa hợp dân tộc của Bộ Chính trị. Phó chính ủy Bùi Phan Kỳ chỉ đạo các tổ công tác kiên trì gọi loa vận động, cho phép nhiều đơn vị có thể đàm phán với đối phương qua điện thoại. Ông vui khi cuộc vận động đạt kết quả: Một số chỉ huy của quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sớm buông súng. Chúng tôi bắt đầu chứng kiến cái bắt tay, cái vỗ vai giữa những người lính không cùng chí hướng[8].

Nhân dịp Tết Nguyên đán, Phó chính ủy Bùi Phan Kỳ giả làm “anh nuôi” tới thăm cảnh hòa hợp, thăm dò thái độ của đối phương. Khi có đoàn văn công từ Bắc vào Quảng Trị biểu diễn nhạc dân ca, ông huy động anh em tổ chức sôi nổi, làm sân khấu, thắp đèn sáng và tăng volume loa đài để binh lính Việt Nam Cộng hòa cùng thưởng thức. Hồi ấy, ông sưu tầm và ghi chép những bài thơ chất chứa nỗi lòng tâm sự của binh lính đối phương sau những tháng năm dài cầm súng. Ông phát hiện ra, tinh thần dân tộc đôi khi vẫn khiến họ khắc khoải và ông gọi đó là luồng “văn hóa phản kháng” – một trong những yếu tố quan trọng khiến tổ chức quân lực của Việt Nam Cộng hòa tan rã, dù nhận chi viện quân sự rất lớn từ Mỹ[9]

 Trang 2 và 3 bản dự thảo tố cáo hành động của Việt Nam Cộng hòa, do Thượng tá Bùi Phan Kỳ chỉnh sửa

Trang 2 và 3 bản dự thảo tố cáo hành động của Việt Nam Cộng hòa, do Thượng tá Bùi Phan Kỳ chỉnh sửa

Khi xảy ra cuộc lấn chiếm Cửa Việt, Chính ủy Bùi Phan Kỳ đề nghị Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320B huy động cán bộ chiến sĩ thuộc các tổ văn phòng, hậu cần đến những nơi mà đối phương đã buông súng, đồng thời điều động các chiến sĩ có kinh nghiệm chiến đấu đến những nơi đang xảy ra chiến sự. Nhờ vậy, Quân giải phóng vừa tăng sức mạnh khiến đối phương không dám trở mặt, vừa có thể bổ sung lực lượng chiến đấu. Ngày 31-1-1973, Việt Nam Cộng hòa buộc phải rút quân khỏi cảng Cửa Việt. Tháng 2-1973, một cán bộ tuyên huấn Sư đoàn 320B soạn bản dự thảo tố cáo hành động vi phạm Hiệp định Paris của Việt Nam Cộng hòa, sau đó Phó chính ủy Bùi Phan Kỳ chỉnh sửa, trước khi Bộ Chỉ huy Các lực lượng vũ trang vùng giải phóng gửi tới Đoàn đại biểu Ủy hội Quốc tế và Sĩ quan liên lạc bốn bên. Với những luận cứ vững chắc và kiên quyết, ta đã mạnh mẽ lên án âm mưu và sự tráo trở của Việt Nam Cộng hòa sau ngày ngừng bắn, giành thắng lợi ngoại giao trên chiến trường ngay sau trận chiến.

Chiến tranh đã lùi xa. Giáo sư Bùi Phan Kỳ đã gói ghém nỗi đau dân tộc từng bị xé làm hai trong sâu thẳm trái tim, dù nó luôn là một phần cuộc sống của ông cùng những đồng đội và cả những người lính ở bên kia chiến tuyến. Ông tin rằng, từng có không ít người lính Việt Nam ý thức được tính tất yếu của sự hòa hợp dân tộc từ trong cuộc chiến, thì các thế hệ trẻ hôm nay càng cần nhận thức rõ điều đó.

Nguyễn Thị Hợp

* Giáo sư – Thiếu tướng Bùi Phan Kỳ, chuyên ngành Khoa học quân sự, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu đường lối – học thuyết quân sự, Viện Chiến lược quân sự, Bộ Quốc phòng. Thông tin trong bài do GS Bùi Phan Kỳ cung cấp.

[1] Sư đoàn 320B, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.30.

[2] Ban đầu, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công nhằm vào hai chiến trường chủ yếu là biên giới Campuchia và Đông Nam Bộ, Tây Nguyên; hướng phối hợp quan trọng là miền núi tây Trị Thiên. Đến tháng 3-1972, căn cứ vào tình hình lực lượng, qua kiểm tra công tác chuẩn bị và cân nhắc các mặt, Quân ủy Trung ương thay đổi kế hoạch. Theo PGS.TS Vũ Quang Đạo, “Tầm vóc, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến thắng Quảng Trị năm 1972”, 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị và chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị (1972-2012), Nxb Chính trị quốc gia, 2012, tr.61.

[3] Các đơn vị tham gia tiến công giải phóng và bảo vệ Quảng Trị (từ 3/1972 đến 31/3/1973) gồm: 6 sư đoàn 304, 308, 312, 320B, 324, 325, mỗi sư đoàn có 3 trung đoàn bộ binh; Trung đoàn 6 độc lập; lực lượng địa phương Quảng Trị và nhiều tiểu đoàn, trung đoàn đặc công, pháo phòng không, pháo binh, xe tăng, công binh, hải quân, thông tin, vận tải. Theo GS Bùi Phan Kỳ, “Tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị theo yêu cầu Hội nghị Paris”, 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị và chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị (1972-2012), Sđd, tr.169.

[4] Trước đó, Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 320B đã tham gia chiến dịch giải phóng Quảng Trị.

[5] Khoảng tháng 10-1972,Thượng tá Nguyễn Huân được cử làm Chính ủy Sư đoàn 320B.

[6] Hoàn cảnh, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị được trình bày khá đầy đủ trong cuốn Tổng kết tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, do GS Bùi Phan Kỳ chủ biên, Nxb Quân đội nhân dân phát hành năm 2006.

[7] Cửa Việt là một quân cảng chiến lược thuộc địa phận huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Từ sau chiến cục năm 1972, cảng Cửa Việt nằm dưới sự kiểm soát của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trận Cửa Việt là cuộc đối đầu giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa, diễn ra từ ngày 25-1 đến 31-1-1973.

[8] Ghi âm phỏng vấn GS Bùi Phan Kỳ, 20-2-2017, tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.

[9] Điều này được GS Bùi Phan Kỳ tổng kết thành một luận điểm trong cuốn Học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, 2013.