Thả “Rùa vàng” trên biển

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ năm 1986 đã tạo ra nền kinh tế mở, đồng thời cũng tạo ra đất dụng võ cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên đại học có cơ hội đưa những kiến thức khoa học trên giảng đường và phòng thí nghiệm vào các dự án, các công trình thực tế dân sinh. Năm 1988, Tổng Công ty xăng dầu chào thầu thi công dự án Bến phao cảng dầu Nghi Hương (Nghệ An), theo đồ án thiết kế công trình do Viện Thiết kế Xăng dầu thực hiện. Nghiên cứu kỹ hồ sơ thiết kế, hai thầy giáo Lương Phương Hậu và Phan Duy Pháp ở khoa Cầu Đường, trường Đại học Xây dựng bàn bạc và thống nhất sẽ liên danh với Công ty cầu Thăng Long tham gia đấu thầu. Công việc thi công chủ yếu là lắp đặt hệ thống bốn phao neo giữ thăng bằng cho tàu đỗ và phao phải neo ở vị trí ổn định trên vùng biển gần đảo Hòn Ngư (Cửa Lò), nơi mực nước biển sâu trên 10m. Khâu kỹ thuật quan trọng nhất là phải đặt được bốn “con rùa” (một bộ phận trong cụm phao neo, mỗi con nặng 45 tấn) bằng bê tông cốt thép xuống đáy biển chính xác vị trí tọa độ, đúng cao trình, chuẩn hướng mũi rùa.

Cùng tham gia đấu thầu còn có 3-4 công ty chuyên ngành khác. Theo thiết kế, trình tự thi công gồm các bước: cho tàu nạo vét, san sửa đáy biển, gia cố nền đặt neo rùa, sau đó mới thả neo rùa xuống. Nhưng nhóm của các thầy giáo trường Đại học Xây dựng đã đề xuất giải pháp thi công theo công nghệ mới: thả neo rùa xuống đáy biển tương đối chính xác vào vị trí thiết kế, định vị bằng phương pháp giao hội 3 máy kinh vĩ. Sau đó dùng súng phun thủy lực xói đáy biển quanh neo rùa để điều chỉnh cao trình và hướng neo rùa. Công nghệ này mới áp dụng trong xây dựng trụ cầu, Công ty cầu Thăng Long rất ủng hộ giải pháp này. Với giá thầu rất thấp do áp dụng công nghệ mới nên đơn vị của ông thắng thầu một cách thuyết phục khiến các công ty không trúng thầu gọi các ông là “mấy thầy giáo điên”.

Tháng 5- 1989, công trình bắt đầu khởi công. Các neo rùa đã được chế tạo và thả xuống sông Lam tại Cảng Bến Thủy. Phải mất một tháng mới hoàn tất việc chuyên chở các cấu kiện như rùa neo, các khối neo phụ trợ, phao ra vị trí công trường, lập hệ thống mốc định vị… Vấn đề còn lại là chờ ngày lặng sóng để tiến hành thả “rùa”. Trong quá trình thi công, thầy giáo Lương Phương Hậu luôn bám sát đội máy xà lan thả rùa, trao đổi những vấn đề kỹ thuật, liên lạc với máy trắc đạc trong bờ để dịch chuyển xà lan về vị trí thiết kế bằng máy bộ đàm, mọi việc hoàn tất thì ra lệnh tháo cáp thả rùa. Vì rùa neo có trọng lượng lớn, thao tác rất phức tạp nên phải mất ba ngày mới thả xong “con rùa” đầu tiên, những lần thả sau thì tiến độ nhanh hơn, nhờ có kinh nghiệm và thầy giáo Hậu chỉ huy cũng thành thạo hơn.

 
Thầy giáo Lương Phương Hậu bên rùa neo chuẩn bị thả xuống biển

Tranh thủ mấy ngày sóng to gió lớn, công trường tạm nghỉ việc khi vừa hoàn thành công đoạn thả rùa, thầy Lương Phương Hậu về nhà thăm vợ con. Có một sự trùng hợp đến ly kỳ là trong lúc cha thả “rùa” trên biển Nghệ An, thì hai cậu con trai ở nhà trên đường đi học về bắt được một con rùa từ dưới sông Sắt bò lên đường. Hai cậu con trai ôm con rùa màu vàng, nặng gần 4 kg về nhà khoe với mẹ. Hàng xóm kéo nhau đến xem rất đông, bà Quý (vợ thầy Lương Phương Hậu) nhốt rùa vào một cái ang lớn, ngày thì để góc sân, tối mang vào nhà. Có mấy người đến hỏi mua, nhưng bà Quý nhất quyết không bán. Đợi đến ngày mùng một đầu tháng, bà thắp hương lên bàn thờ, lầm rầm khấn vái rồi bảo hai con trai cho rùa vào chiếc bị cói, mang lên hồ Hoàn Kiếm phóng sinh. Ông nghe vợ kể lại, khi hai cậu con thả rùa xuống hồ, người đến xem rất đông. Thế là thành chuyện ba cha con cùng thả rùa.

Không biết có phải do được thần Kim Quy phù hộ mà công việc lắp đặt rùa neo cảng dầu Nghi Hương tiến hành rất thuận lợi. Công việc phun xói thủy lực để điều chỉnh vị trí neo rùa tốn nhiều thời gian, công sức của đội thợ lặn nhưng cũng thành công. Công trình được đơn vị thiết kế và chủ đầu tư nghiệm thu đánh giá tốt. Trong ngày hoàn công, tháng 8-1989, lãnh đạo tỉnh Nghệ An ra tận xà lan thả neo rùa chúc mừng mọi người.

Nhưng rồi, đầu tháng 9-1989 khi hệ thống phao neo lắp đặt được mấy ngày thì một cơn bão mạnh cấp 12 đổ bộ vào Nghệ An. Nửa đêm ngày 8-9-1989, thầy Lương Phương Hậu nhận được tin báo: bốn phao neo tại cảng Nghi Hương không thấy đâu, chỉ thấy sóng cao ầm ầm đổ vào bờ Cửa Lò. Cả nhóm thiết kế và thi công tại Hà Nội nháo nhác tìm nhau, phỏng đoán có lẽ sóng bão cắt đứt xích phao, kéo phao trôi khỏi vị trí đã thi công mất rồi. Cả ngày hôm đó, thầy Hậu và thầy Pháp đến nhà kỹ sư Học (Chủ nhiệm thiết kế), đứng ngồi không yên chờ đợi tin tức từ Viện Thiết kế Xăng dầu báo về. Cậu con trai của kỹ sư Học cứ thút thít khóc khi có người đùa, dọa bố Học chắc phải đi tù. Thầy Lương Phương Hậu không nói cho vợ con biết sự việc, những khi chạy sang Viện Thiết kế nghe ngóng chuyện phao Nghi Hương mất tích, ông chỉ nói đi họp ở trường.

Đến sáng hôm sau, tin từ Nghệ An báo ra, nước đã rút, bốn chiếc phao khổng lồ vẫn ở đúng vị trí thiết kế và vẫn nguyên vẹn. Khi thầy Pháp đến nhà báo tin, hai người ôm nhau nhảy lên sung sướng. Sau này, Giáo sư Lương Phương Hậu mới biết, cơn bão đổ bộ vào Cửa Lò khi đó là một cơn bão cực mạnh, tại trạm Hòn Ngư, mực nước dâng lên cao tới 3,6m (chiều cao nước dâng chưa từng xảy ra ở Việt Nam).
 

 Lương Phương Hậu (đội mũ) cùng đồng nghiệp ngồi trên phao

trong ngày hoàn công, Nghệ An, tháng 8-1989

Tủm tỉm cười khi thấy chúng tôi ngẩn người trước câu chuyện hồi hộp của nhóm thầy giáo lần đầu tiên tham gia một công trình thời đổi mới, GS.TS.NGƯT Lương Phương Hậu kể tiếp: công việc thả “rùa” kết thúc, nhóm nhận được một khoản tiền kha khá, gia đình tôi xem như “đổi đời” khi mua được chiếc xe máy Honda “kim vàng giọt lệ” màu ốc bươu thời đó rất oách, cùng chiếc Tivi Sony vỏ đỏ và một chiếc cassette. Đúng là… rùa Nghi Hương là “con rùa vàng thật!”. Ông lại cười, nụ cười làm sáng khuôn mặt rất phúc hậu của ông.

 

Trần Bích Hạnh
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam