Thầy Khoán

Tôi còn mãi ấn tượng về những buổi học Tiền cổ do thầy Khoán đứng lớp, thời còn học đại học. Thầy, một tay chống batoong, một tay cầm điếu thuốc, giảng bài say sưa bằng giọng Nghệ. Giữa giờ, thầy phát cho mỗi đứa một dúm tiền xu để tự đọc và xác định niên đại. Đó là những đồng xu cổ, xanh lét, minh văn đã mờ, được thầy sưu tầm làm giáo cụ trực quan cho sinh viên. Đó cũng là lần đầu tiên và duy nhất trong quãng đời sinh viên ngành Bảo tàng học, chúng tôi được tận tay sờ vào cổ vật. Lý thú vô cùng!

Ngày đó, bây giờ, và chắc chắn cả sau này nữa, giới khảo cổ học Việt Nam đều nhất trí với nhận xét của cố GS Trần Quốc Vượng, rằng: Chỉ làm chuyên môn, Hoàng tiên sinh (Hoàng Văn Khoán – TG) cũng là một chuyên gia về thời đại sắt sớm, về kim tướng học[1]. Kim tướng học là một phương pháp nghiên cứu cấu trúc bên trong của kim loại, nhằm tìm hiểu kỹ thuật gia công, chế tác kim loại và kỹ thuật luyện kim của từng thời kỳ lịch sử, thông qua các hiện vật khai quật. Và, trên cơ sở đó, xác định trình độ chung và những đặc điểm sự phát triển kinh tế của mỗi thời kỳ[2]. Điều này rất gần gũi với tư duy của Mác khi bàn về hình thái kinh tế – xã hội: Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào[3]. Như vậy, thầy đã kiên trì đi sâu vào một phương pháp rất quan trọng, góp phần giải mã những đặc điểm sản xuất và quan hệ của con người ở những thời kỳ lịch sử nhất định.

Thiết nghĩ, tôi cũng cần phải nhắc lại xuất phát điểm của phương pháp kim tướng trong những nghiên cứu nổi bật của thầy, ấy là dấu mốc năm 1971. Năm đó, thầy được trở lại Liên Xô sau khi tốt nghiệp đại học về nước đã 3 năm làm quen với nền khảo cổ học Việt Nam và mối quan hệ của chúng với các nền văn hóa khác[4]. Lần này, vừa chân ướt chân ráo tới Viện Khảo cổ, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, thầy mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu sinh: Luyện kim và chế tạo kim loại đen miền Nam Siberia, từ sơ kỳ đồ sắt đến thời đại Môngôn. Nguyện vọng lớn nhất của thầy là được học phương pháp nghiên cứu. Sau 3 năm làm nghiên cứu sinh, dưới sự hướng dẫn của GS B. A. Kônchin – chủ nhân của nhiều công trình về phương pháp kim tướng, thầy đã thỏa nguyện.

Mùa hè năm 1975, thầy Khoán cùng một số cán bộ đi khảo sát nghề luyện sắt ở làng Nho Lâm, Diễn Châu, Nghệ An và phát hiện ra di chỉ khảo cổ học Đồng Mỏm. Năm sau, một cuộc khai quật đã được tiến hành trên diện tích 115m2. Những hiện vật thu được trong hố khai quật khá phong phú: đồ gốm, đồ sắt, đồ đồng, đồ thủy tinh, xương, mộ táng… Đặc biệt, dưới lớp đất văn hóa[5] còn phát hiện ra những vết tích của 6 lò luyện sắt. Trên cơ sở đó, thầy cùng với Nguyễn Cảnh Hồng[6] đã đưa ra nhận xét: Địa điểm khảo cổ học Đồng Mỏm nằm trong khung niên đại của văn hóa Đông Sơn sắt, nghĩa là từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ I trước Công nguyên… Lần đầu tiên một khu luyện kim được phát hiện… Địa điểm khảo cổ học Đồng Mỏm sẽ góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc của đồ sắt, tiến lên giải quyết một số vấn đề về thời đại sắt sớm ở nước ta[7]. Địa điểm Đồng Mỏm đã cùng với Nghi Xuân và Làng Vạc tạo nên tam giác di chỉ khảo cổ học thuộc giai đoạn cuối của nền văn hóa Đông Sơn trên tiểu vùng văn hóa xứ Nghệ, quê thầy.

Trước nay, các nhà khảo cổ học thường phân chia thời đại kim khí ở nước ta thành hai thời kỳ lớn: thời kỳ đồ đồng, thời kỳ đồ sắt. Bên cạnh hai di chỉ văn hóa của thời kỳ đồ đồng là Đồng Đậu và Gò Mun, những di chỉ Đông Sơn, Sa Huỳnh, Đồng Nai, Óc Eo là đại diện tiêu biểu của thời kỳ đồ sắt từng phát triển rực rỡ trên dải đất hình chữ S, từ Bắc chí Nam. Có rất nhiều hiện vật được đưa lên từ lòng đất. Tuy nhiên, việc phân loại một cách rạch ròi các chất liệu sắt, thép, gang (hầu hết đều được gọi chung là chất liệu sắt) và “phương pháp kỹ thuật chế tạo chúng” lại chưa được chú ý, cho dù đây là điều quan trọng nhất – theo quan điểm của Mác như đã nói ở trên. Bằng phương pháp kim tướng học, thầy đã tiến hành nghiên cứu 8 mẫu hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn, 9 mẫu hiện vật thuộc văn hóa Sa Huỳnh, và đi đến kết luận: Phương pháp sản xuất (hoàn nguyên trực tiếp) và tính chất của sắt xốp giống nhau giữa hai khu vực…Về mặt kỹ thuật chế tạo thì những người thợ sắt Đông Sơn và Sa Huỳnh đã có tay nghề khá thành thạo trong việc rèn nóng. Nhưng người Đông Sơn có nhiều khâu kỹ thuật và phương pháp gia công: lót thép, hàn thép, thấm thán đúc sắt… Nhưng dù có sự giống và khác nhau về kỹ thuật thì sau kỹ nghệ luyện kim đồng, người Đông Sơn, Sa Huỳnh cũng như Dốc Chùa đã mở đầu một nền kỹ nghệ luyện kim đen, mở đầu một thời đại mới – một thời đại phát triển cao của lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất ở Việt Nam vào thiên niên kỷ I trước Công nguyên[8]. Cũng bằng phương pháp kim tướng, thông qua mẫu hiện vật là chiếc cuốc ở Gò Chiền Vậy[9] và chiếc rìu M37[10], kết hợp với các tài liệu dân tộc học, thầy chứng minh rằng người Việt cổ đã chế tạo ra gang từ thế kỷ thứ IV trước Công nguyên…

 PGS.TS Hoàng Văn Khoán

Một học trò cũ của thầy, PGS.TS Đinh Trung Kiên[11] đã từng nói: Dù thầy viết không nhiều nhưng mỗi công trình ra đời là cả trí tuệ và tấm lòng thầy gửi vào trong đó. Quả thực, thầy kiên trì và tâm huyết với địa hạt nghiên cứu của mình, cũng như một lòng trung thành với Đảng Cộng sản. Đến nay, thầy vẫn dứt khoát rằng: Tôi không nói xạo, cũng không phải nói theo công thức, nhưng không có Đảng Cộng sản thì không có tôi, và nếu như có tôi, thì tôi không phải là tôi bây giờ[12]. Nạn đói 1945 đã cướp đi 4 người em ruột của thầy. Có những thời điểm thầy sống lang thang, đã thấy cái chết trước mắt nhẹ tựa lông hồng, con đường sống mờ mịt và con đường đi học không còn nữa[13]. Cách mạng thành công đem lại cho thầy niềm vui được trở lại trường tiếp tục đi học – cơ hội duy nhất để thoát nghèo. Thông minh, sáng dạ, lại ham học, nhưng cái đói thì vẫn đeo đẳng thầy suốt những năm tháng đi học. Song, như một phép màu, giữa lúc hoang mang cực độ vì không tìm ra cơ hội kiếm cơm nuôi chí học hành, thì thầy nhận được thông báo đi học ở Trung Quốc. Hội đồng giáo viên trường cấp II Hương Khê (Hà Tĩnh) nhất trí đề cử thầy với sự nhất trí tuyệt đối. Năm ấy (1953), cả huyện chỉ có một mình thầy được xuất dương du học. Dấu mốc đó đã mở ra chân trời mới cho khát vọng “vượt ra ngoài vòng cương tỏa” mà thầy sớm định hình. Bởi thế, ở nhiều khía cạnh: giảng dạy, học thuật, và cả trong các “chức vụ lãnh đạo – chỉ đạo chính trị trong khoa học”[14] sau này, người ta dễ dàng nhận thấy ở thầy sự nhiệt huyết, bản lĩnh và tinh thần nhân văn.

Đến nay, nhiều thế hệ sinh viên khoa Lịch sử ở trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (nay là trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn) vẫn còn nhắc đến sự kiện “trùng cửu” năm 1981. Chuyện là, năm ấy nhà trường chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm thành lập, thầy đề xuất mua cho mỗi cán bộ trong khoa Lịch sử một chiếc cặp làm kỷ niệm. Do kinh phí không đủ cho việc này nên khoa đã mời đoàn văn công trung ương về biểu diễn tại trường để bán vé lấy tiền thực hiện ý tưởng của thầy. Đêm “trùng cửu” (9-9-1981), toàn bộ vé đã được bán hết. Trong lúc mọi người đang say sưa với tiếng hát Thu Hiền, tiếng sáo Đinh Thìn… thì một nhóm thanh niên xấu ở ngoài phố xông vào gây hấn, đập phá cửa kính, đánh trọng thương một sinh viên tự vệ. Hội trường náo loạn. Đông đảo sinh viên ký túc xá Mễ Trì kêu gọi nhau truy đuổi nhóm côn đồ, gây náo loạn cả một vùng. Với tư cách Bí thư Đảng ủy khoa và Phó chủ nhiệm khoa Lịch sử (phụ trách đào tạo), sau đêm đó thầy bị cơ quan công an nhiều lần gọi lên truy hỏi. Thầy không hề nao núng mà vẫn “cắn răng giơ đầu chịu báng”. Suốt một thời gian dài sau đó, thầy chịu nhiều hệ lụy trong công việc.

Sóng gió qua đi, trong một cuộc họp bộ môn Khảo cổ học, GS Hà Văn Tấn từng đùa và khuyên thầy “chớ tái quan!”. Nhưng rồi, thầy vẫn “cứ tái quan”: cuối những năm 80, thầy được bầu làm Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, kiêm Phó bí thư Đảng ủy trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Chính vì việc “tái quan” này mà GS Trần Quốc Vượng trào lộng rằng thầy “có phần thích thú với các chức vụ lãnh đạo”. Mặc dù vậy, trên cương vị đó, thầy đã góp phần giúp GS Trần Quốc Vượng giải quyết được một số việc rắc rối, không dưới một lần. Năm 1991, GS Trần Quốc Vượng trở về Việt Nam sau chuyến đi Mỹ để lại tai tiếng vì một số bài viết và chương trình giảng dạy mang tính “nhạy cảm” chính trị. Ông Nguyễn Đình Tứ – Trưởng ban Khoa giáo Trung ương Đảng thời kỳ đó đã triệu tập ông Võ Đức Tôn – Bí thư Đảng ủy trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, và thầy – Phó bí thư, lên giải trình về sự việc. Thầy trình bày và phân tích 3 điểm: Thứ nhất, anh Vượng có công đào tạo nhiều thế hệ trẻ cho Việt Nam, cả trong nước và ngoài nước. Thứ hai, đối với trí thức ta không nên thô bạo, rút kinh nghiệm từ trường hợp của nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện. Thứ ba, mặc dù anh Vượng là một người tự do nhưng rất nhạy bén về chính trị, ta không nên mắc mưu địch[15]. Không lâu sau đó, GS Trần Quốc Vượng được phép sang Pháp giảng dạy. Trong bữa bia chia tay, ông thì thầm vào tai thầy Khoán:

 – Lần này tao sang Pháp rồi tranh thủ thời gian sang Hungary để thăm con, tao nhớ nó quá! 

 – ... Ông đi Pháp thì phải về đúng ngày, theo quy định. Khi về thì ông viết một báo cáo đã làm gì ở Pháp. Tôi sẽ họp Đảng ủy và Ban giám hiệu, rồi mời ông lên để cho ông báo cáo chuyến đi[16].

GS Trần Quốc Vượng gật đầu đồng ý. Rồi những thông tin tích cực sau chuyến đi này được thầy Khoán báo cáo trước Thành ủy Hà Nội. Một tháng sau, GS Vượng được mời sang Ai Cập. Thành ủy lập tức đồng ý. Trở về sau chuyến đi ấy, GS Vượng được sang Hungary thăm con gái theo nguyện vọng. Bây giờ thì ông đã về cõi khác chẵn một thập kỷ. Những kỷ niệm điền dã và những câu chuyện bên ly rượu với GS Trần Quốc Vượng vẫn được thầy kể lại. Ngay cả cái “máu” điền dã lan truyền từ GS Trần cũng vậy, vẫn còn nguyên, dù thầy đã 83 – theo tuổi mụ.

Mỗi lần tôi tới nhà, thầy lại chống batoong ra ban công, ném chùm chìa khóa xuống đường. Tôi nhặt lấy, tự mở cổng và lên gác. Căn phòng tràn ngập ánh sáng. Chốc lát, lại có những làn khói thuốc từ từ len ra ô cửa sổ rộng rộn tiếng chim gù. Trên chiếc bàn gỗ nhỏ nhắn là một vài hiện vật khảo cổ mà thầy vừa sưu tầm được sau các chuyến điền dã, cùng với những bản thảo viết tay còn chưa ráo mực, nét chữ đẹp và đầy nội lực. Một lần tôi hỏi: Thầy không dùng máy tính? Thầy bảo: Một hôm tao đang ngồi làm việc, đứa cháu nội học lớp 3 chạy lên hỏi: Ông ơi đến khi nào thì ông chết? Tao hỏi lại: Sao cháu lại hỏi thế? Nó bảo: Khi nào ông chết thì ông cho cháu cái máy tính nhé! Thế là tao cho nó, không dùng máy tính nữa. Thầy tự hào: Bây giờ nó học lớp 7, mà có thể đọc hết cuốn sách tiếng Anh trong một tuần. Cái cách thầy chiều cháu, hệt như cái quyết định bỏ dở luận án tiến sĩ tại Liên Xô năm 1986 (dù đã viết xong 3 chương), để về nước săn sóc việc học hành cho hai đứa con khi nghe tin chúng sống quá khổ và đến nỗi bị lưu ban. Ở thầy, ngoài chữ “Tâm”, còn có cả chữ “Chí” muốn trao truyền cho thế hệ hậu sinh: Trong hơn 8 thập kỷ của cuộc đời, điều mà tôi cảm thấy sâu sắc nhất là học và hành, học và tập. Khi hành và tập mới bộc lộ nhiều thiếu thốn. Học được cái này lại đẻ ra cái thiếu khác. Khắc phục được cái thiếu này, cái thiếu khác lại nảy sinh. Chẳng bao giờ hoàn chỉnh được mình, bởi thế giới bao la, kiến thức loài người vô tận… Vì thế, khoa học không bao giờ là bậc thang cuối cùng. Mỗi một thành công là dấu chấm qua hàng, không bao giờ có dấu chấm hết[17].

Đỗ Minh Khôi

 

[1] Trần Quốc Vượng, “Tặng Hoàng Văn Khoán tiên sinh”, trong Bí ẩn của lòng đất của Hoàng Văn Khoán, Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, 1999.

[2] Hoàng Văn Khoán, “Kim tướng học trong khảo cổ học”, trong Bí ẩn của lòng đất, đã dẫn.

[3] C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 269.

[4] Hoàng Văn Khoán, “Con đường đi học” (hồi ký), trong Bí ẩn của lòng đất, đã dẫn.

[5] Di chỉ khảo cổ khai quật thường gồm lớp đất bề mặt, lớp đất văn hóa (tầng văn hóa); mỗi di chỉ khảo cổ có thể có một hoặc nhiều tầng văn hóa khác nhau.

[6] Sinh viên khoa Lịch sử, trường ĐH Tổng hợp HN, được thầy Hoàng Văn Khoán hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp; hiện ông Hồng đang công tác tại báo Thiếu niên tiền phong.

[7] Hoàng Văn Khoán – Nguyễn Cảnh Hồng, “Địa điểm khảo cổ học đồng Mỏm (Diễn Châu, Nghệ An)”, trong Bí ẩn của lòng đất, đã dẫn.

[8] Hoàng Văn Khoán, “Kỹ thuật chế tạo đồ sắt ở các nền văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt Việt Nam” trong Bí ẩn của lòng đất, đã dẫn.

[9] Viện Khảo cổ học khai quật năm 1969 tại di chỉ Gò Chiền Vậy, thuộc xã Kim Hoàng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

[10] Viện Khảo cổ học khai quật năm 1962 tại ngôi mộ số 37, thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

[11] PGS.TS Đinh Trung Kiên (1954-2007), nguyên Chủ nhiệm khoa Du lịch, trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội.

[12] Phỏng vấn PGS.TS Hoàng Văn Khoán ngày 13-10-2015, tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.

[13] Hoàng Văn Khoán, “Con đường đi học” (hồi ký), trong Bí ẩn của lòng đất, đã dẫn.

[14] Chữ dùng của GS Trần Quốc Vượng trong bài “Tặng Hoàng Văn Khoán tiên sinh”, đã dẫn.

[15] Phỏng vấn PGS.TS Hoàng Văn Khoán ngày 13-10-2015, tài liệu đã dẫn.

[16] PGS.TS Hoàng Văn Khoán thuật lại trong buổi phỏng vấn ngày 13-10-2015, tài liệu đã dẫn.

[17] “Lời tâm huyết của PGS.TS Hoàng Văn Khoán”, 15-10-2015, tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.