Thầy thuốc Nhân dân, GS.TS Nguyễn Đức Vy: Người gieo hạnh phúc trong tiếng cười trẻ nhỏ

Một dụng cụ hỗ trợ vi phẫu vòi tử cung giúp nhiều phụ nữ có con trở lại, vẫn âm thầm, miệt mài làm việc. Bởi với ông, khi nào còn sức lực thì khi đó còn lao động, còn cống hiến.

Tôi biết đến Thầy thuốc nhân dân, GS.TS Nguyễn Đức Vy, Nguyên Giám đốc Viện Bảo vệ Bà mẹ và trẻ sơ sinh (nay là Bệnh viện Phụ sản Trung ương) bắt đầu từ một tình huống rất tình cờ: Một nữ bệnh nhân ở tỉnh Quảng Ninh sau 11 năm hiếm muộn, đi chữa trị nhiều nơi với nhiều cách khác nhau nhưng cứ đến kỳ thai ở tháng thứ 5 thì lại không giữ được con. Chỉ khi đến Bệnh viện Phụ sản Trung ương, được GS. TS Nguyễn Đức Vy khám thì căn bệnh tử cung đôi của chị mới được phát hiện và chữa trị thành công. Nhờ vậy, chị đã có được niềm hạnh phúc ngọt ngào-được làm mẹ, được bế ẵm đứa con do mình thai nghén, rứt ruột đẻ ra.

GS.VY giới thiệu về cần quay nâng tử cung trong điều trị vô sinh. 

Câu chuyện về GS. TS Nguyễn Đức Vy cứ thế được mở ra. Khi tìm hiểu về ông, tôi có thêm cơ hội để hiểu về những người thầy thuốc của thế hệ ngày xưa-thời mà vấn đề tâm đức, y đức luôn là điều sẵn có trong mỗi người làm nghề chữa bệnh cho nhân dân. Ông tâm sự, thời ông học, các thầy thường dạy khi khám cho một bệnh nhân phải trải qua đủ các bước nhìn, sờ, nghe, gõ sau đó mới khám, siêu âm… để nắm bắt được đầy đủ tình trạng bệnh và có sự tiếp xúc với bệnh nhân, tạo sự tin tưởng ở nơi thầy thuốc. Vẫn giữ cách khám bệnh có phần “cổ điển” ấy nên mỗi buổi khám của ông chỉ giới hạn số bệnh nhân nhất định. “Có mấy bác sĩ trẻ bảo tôi rằng, thầy làm thế thì chỉ thiệt. Nếu khám 100 người/buổi thầy có ngay 3 triệu, nhưng thầy khám lâu như vậy, mỗi buổi chỉ được 10 người, được 300.000 đồng. Biết là như vậy nhưng tôi không vì lợi nhuận mà bỏ qua được các bước khám bệnh này”.  

Miệt mài sáng chế ra sản phẩm “made in Việt Nam”
Mang ý định đến hỏi ông về kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhưng tôi lại bị cuốn hút bởi một lĩnh vực khác: Vi phẫu vòi tử cung chữa vô sinh! Đây là kỹ thuật dễ thực hiện, tỉ lệ thành công cao và chi phí lại rẻ hơn thụ tinh trong ống nghiệm rất nhiều. GS. Vy kể lại, trong thời gian ông làm Giám đốc Viện Bảo vệ Bà mẹ và trẻ sơ sinh (1998-2004), phía Bệnh viện Từ Dũ, TP Hồ Chí Minh đã áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều trị vô sinh. Tại Hà Nội, Viện Bảo vệ Bà mẹ và trẻ sơ sinh cũng được chỉ đạo đưa kỹ thuật này vào áp dụng. Với vai trò Giám đốc, ông đã hướng cho học trò của mình lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn Viết Tiến-nay là Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương theo học kỹ thuật này. Về phần mình, ông lại miệt mài theo đuổi kỹ thuật vi phẫu vòi tử cung…

 Chị Đào trong niềm hạnh phúc làm mẹ sau khi được thông nối vòi trứng. Ảnh: TA

Theo dòng hồi tưởng, GS. Vy kể lại: Những năm 1980 Việt Nam thực hiện chính sách Kế hoạch hóa gia đình bằng phương pháp triệt sản, sau đó nhiều chị em do hoàn cảnh con ốm đau, tai nạn, có khi mất cả 2 nên muốn đẻ bù. Khó khăn là làm sao có thể thực hiện được điều này khi vòi tử cung đã bị chia tách. Sau một thời gian dài nghiên cứu, ông đã sáng chế ra cần nâng và quay tử cung. Sáng chế này không chỉ xử lý các dính tắc ở 2 vòi tử cung trong điều trị vô sinh mà còn ứng dụng vào một số phẫu thuật khác ở tiểu khung trong điều trị vô sinh do nhân xơ, u xơ tử cung, bóc tách u nang nhỏ ở buồng trứng… Đây cũng là cơ sở và nảy sinh ra vấn đề tạo hình, cắt bỏ đoạn tắc ở vòi tử cung rồi nối lại cho thông.

Sau một thời gian dài miệt mài nghiên cứu, ông đã sáng chế ra sản phẩm Cần quay nâng tử cung VY-86, được Ủy ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước cấp bằng ngày 4-3-1987. Sáng chế được đưa đi triển lãm Quốc tế 17 nước ở Matxcơva; được cấp bằng sáng chế và được công bố quốc tế ngày 23-3-1987; Huy chương bạc Hội chợ Quốc tế. Thành công của kỹ thuật này không chỉ được áp dụng tại Việt Nam mà một số nước trên thế giới cũng áp dụng và đánh giá cao. 
Tại Việt Nam, sau thành công của ca phẫu thuật đầu tiên vào năm 1996, kỹ thuật vi phẫu vòi tử cung dần trở nên phổ biến và mang lại nhiều thành công. Đến nay kỹ thuật này đã trở thành trường quy tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương với chi phí rất thấp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người không biết nên đi chữa nhiều nơi, tốn kém mà không mang lại kết quả như mong đợi”-GS. Vy cho biết.
Mang đến hạnh phúc làm mẹ cho nhiều phụ nữ
Từ năm 1996 đến nay, hàng nghìn trường hợp đã được phẫu thuật vi phẫu vòi tử cung, đồng nghĩa với hàng nghìn trường hợp có được niềm hạnh phúc giản dị mà vô cùng thiêng liêng: Được cất tiếng nựng đứa con mình mang nặng đẻ đau. Mặc dù chưa có một thống kê tổng thể nhưng ở từng thời điểm đều cho thấy các trường hợp được phẫu thuật có tỉ lệ thành công rất cao.

Theo GS.Vy, tỉ lệ thành công của kỹ thuật này khá cao. Ở phụ nữ dưới 30 tuổi, tỉ lệ thành công chiếm đến trên 90%; ở phụ nữ dưới 40 tuổi, tỉ lệ thành công là 75%; và ở phụ nữ trên 40 tuổi, tỉ lệ thành công cũng chiếm đến 45%. Thời gian có thai trở lại sau vi phẫu trung bình 4 đến 10 tháng, cá biệt có trường hợp có thai ngay tháng đầu sau mổ. Ưu điểm của vi phẫu so với thụ tinh trong ống nghiệm là chi phí thấp (giá hiện nay khoảng 3-4 triệu đồng, trong khi thụ tinh trong ống nghiệm có chi phí thấp nhất khoảng 70 triệu đồng). Trong khi đó, thai nhi được hình thành từ kỹ thuật vi phẫu ít gặp bất thường, trừ khi người mẹ ốm đau. Còn thụ tinh trong ống nghiệm tỉ lệ thành công (bồng con về nhà) chỉ 20%, tỉ lệ thai bất thường cao. Vì vậy, khả năng phát triển ngày càng nhiều vi phẫu thuật trong điều trị vô sinh là thực thi, xu hướng mở rộng khi tiến hành nối vòi tử cung bằng nội soi. 

Thực tế vô sinh thứ phát (với phụ nữ đã có thai) nhưng nay bị tắc vòi tử cung chiếm đến gần 70%. Với những phụ nữ chưa từng có thai sau khi lấy chồng cũng có đến gần 28% do tắc vòi tử cung. Vì vậy, vô sinh do tắc vòi tử cung chiếm một tỉ lệ đáng kể. So với các nước trong khu vực châu Á thì tại Việt Nam, chi phí điều trị nối vòi tử cung thấp hơn rất nhiều. Ở các nước châu Á từ 4.500-6.500 đô la Mỹ, ở Mỹ chi phí này là 6.500 đô la Mỹ. Kỹ thuật này mang đến cơ hội làm mẹ cho nhiều chị em với chi phí thấp.

Gần đây nhất là trường hợp chị Đào, 25 tuổi, ở tỉnh Hưng Yên, sau 5 năm đi chữa trị đã gặt hái được mùa quả ngọt khi tìm đến GS. Vy trong sự tình cờ. Trước đó, sau khi sinh con đầu vì cơ thể quá yếu, người lúc nào cũng trong tình trạng hụt hơi, hoa mắt, chóng mặt nên chị quyết định đi thắt vòi trứng. Vài năm sau, khi thấy cơ thể khỏe dần lên chị lại khao khát sinh thêm đứa con nữa nhưng sự khó khăn không chỉ phụ thuộc sức khỏe của chị mà lại… nằm ở cái vòi trứng.

Không tìm đến bệnh viện mà chị lại đi tìm thầy tìm thuốc trong dân gian. Long đong mấy năm vẫn không mang lại kết quả, vợ chồng chị tìm đến Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Tại đây, chị đã gặp GS.Vy và được chữa trị bằng cách nối 2 vòi trứng đã bị thắt lại với nhau. Sau khi vòi trứng được thông, tiêm thuốc chỉ 2 tháng thì chị có tin vui và sinh được cháu trai khỏe mạnh. “Mình không bao giờ dám mơ lại có được niềm hạnh phúc này thêm lần nữa. Cũng may mắn làm sao, lần bầu bí này với mình không mệt mỏi như lần đầu. Mình thấy vô cùng may mắn khi gặp được GS. Vy”-chị Đào chia sẻ.

Còn rất nhiều người phụ nữ có được sự may mắn, có được niềm hạnh phúc vô bờ khi được thực hiện thiên chức làm mẹ thiêng liêng của mình chỉ từ những sự tình cờ khi gặp vị giáo sư già cần mẫn và đáng kính này. Không chạy theo thương mại, không chạy theo thị trường, hàng ngày ông vẫn cần mẫn và tỉ mỉ trong từng công việc dù khám hay mổ, dù công hay tư. Bởi lẽ ông luôn tâm niệm một điều: Làm việc thì phải đặt tâm đức, trách nhiệm với sức khỏe, tính mạng bệnh nhân lên hàng đầu. Cách nghĩ, cách làm ấy trong thời điểm này lại càng trở nên đáng trân trọng hơn bao giờ hết…