Năm 2008, Khoa Ngữ Văn Đại học sư phạm Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học nhân dịp 95 năm sinh của Giáo sư Trương Tửu. Đài Truyền hình tỉnh Vĩnh Phúc dựng phim chân dung Giáo sư – nhà văn Trương Tửu. Năm 2009, Nguyễn Hữu Sơn lại cho ra mắt bạn đọc sách Trương Tửu: Tuyển tập văn xuôi. Đặc biệt là hôm nay, vào ngày sinh 100 năm ( 18/11/1913 – 18/11/2013) của nhà văn, Hội nhà văn Việt Nam tổ chức kỷ niệm. Rõ ràng là Giáo sư Trương Tửu- cùng bút danh Nguyễn Bách Khoa- đã và đang nhanh chóng hồi sinh mỡ màu với đất nước, với chúng ta. Xin nhân danh cá nhân vốn là một học trò của Giáo sư Trương Tửu cách đây đúng 60 năm và cũng xin thay mặt các môn sinh môn đệ của giáo sinh, nhiệt liệt hoan nghênh lễ kỷ niệm và chân thành cảm ơn Hội nhà văn Việt Nam đứng đầu là nhà thơ Hữu Thỉnh đã đưa lại niềm vui cho hương hồn người Thầy đại tôn đại kính của chúng tôi ở thế giới bên kia và cũng là cho gia đình con cháu của Thầy ở thế giới bên này, kể cả chúng tôi là những môn đệ của Thầy.
Kính thưa quí vị! Chúng ta kỷ niệm Giáo sư – nhà văn Trương Tửu là:
Chúng ta kỷ niệm một tuổi trẻ khát kháo sôi động dân chủ, ghét bất công mà hô hào bãi khóa, làm reo để hai lần bị nhà trường thực dân đuổi học, nhưng là hai lần bạn bè kính nể và hậu thế ai biết sẽ biểu dương.
Chúng ta kỷ niện một thanh niên con nhà nghèo nhưng giàu trí lực và quyết tâm, bằng con đường tự học là chinh, vươn lên chiếm lính kho tàng văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại mà cái biệt danh, bút danh Nguyễn Bách Khoa vừa là khát vọng, vừa là sự thật.
Chúng ta kỷ niệm một nhà văn mang tên Trương Tửu, Nguyễn Bách Khoa, ròng rã 28 năm trời, tính từ năm 1931, dọc ngang bút mặc trên văn đàn Việt Nam, để lại một văn nghiệp không dễ có nhiều, với các thể loại: lý luận, phê bình, nghiên cứu, tiểu thuyết. Dù cho văn chương có là chuyện “tự cổ vô bằng cứ”, là chuyện Recherche (chercher et rechercher) phải tìm đi tìm lại, thì ai đã nỡ quên Kinh Thi Việt Nam của Nguyễn Bách Khoa trong khi chính nó là một mốc son đánh dấu những kiến giải mới và nặng sâu tinh thần dân tộc, có ý nghĩa nâng cấp nhận thức về giá tri của văn học dân gian Việt Nam Trung Hoa có Kinh Thi được Khổng Tử san định thì Việt nam có Kinh Thi Việt Nam do Nguyễn Bách Khoa định danh và biên soạn. Nào có thua gì Trung Hoa. Kinh Thi Việt Nam đã bị chính quyền thực dân cấm lưu hành. Ai đã nợ quên Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ của Nguyễn Bách Khoa mà nhiều người vẫn coi đó là thành quả nghiên cứu văn học đầu tiên và xuất sắc về một tác gia cụ thể theo quan điểm Mác xít để những người đến sau với Nguyễn Công Trứ khó lòng thoát ra ngoài ý tưởng của nó. Một số người đã lầm khi cho rằng Giáo sư Trần Đình Hượu là người đầu tiên đưa ra khái niệm “nhà nho tài tử”. Không! người đầu tiên đưa ra khái niệm đó là Nguyễn Bách Khoa tức Trương Tửu, thầy dạy Trần Đình Hượu, trong công trình viết về Nguyễn Công Trứ này. Rồi ba công trình nghiên cứu về Truyện Kiều của Trương Tửu: Nguyến Du và Truyện Kiều, Văn chương Truyện Kiều, Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du, dù có điểm này điểm khác đã bị nhiều người không chấp nhận ví như dựa vào học thuyết Phờrớt mà nói nàng Kiều “mặc bệnh ủy hoàng” (!) nhưng về tổng thể của ba công trình vẫn cho thấy một quá trình vật lộn bền bỉ đi tìm chân lý và biết tự điều chỉnh của một nhà khoa học trung thực với chính mình. Rồi nữa, 12 cuốn tiểu thuyết , truyện văn xuối của Trương Tửu, dù người đời ít để ý hơn nhưng vẫn chẳng đã cho thấy thêm sự đa tài kể cả tầm tư tưởng khả kính của tác giả. Chẳng phải là Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã mở đầu mụcTiểu thuyết xã hội bằng việc giới thiệu tiểu thuyết của Trương Tửu và mệnh danh đó là “tiểu thuyết tranh đấu”. Riêng tác phẩm Tương lai văn nghệ Việt Nam mà bị Thanh Bình chính là Giáo sư Đặng Thai Mai “ phê bình ráo riết” trên báo Tiên Phong năm 1946 ở các số 2,3,6, và về sau, năm 1958, một vài người nay ở thế giới bên kia chắc phải hối hận vì đã bóp méo để gây hệ lụy nặng nề cho tấc giả. Đây là một sự trớ trêu đáng sợ. Tương lai văn nghệ Việt Nam viết trước ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong đó có luận điểm “văn nghệ phải có chất men phản kháng” là để nói với chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời chứ đâu phải để nói với chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa sau đó. Nhưng khốn nỗi nó lại được in ra và phát hành ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám vừa thành công. Do đó mà bị hiểu lầm là tác phẩm chống phá cách mạng, tranh quyền lãnh đạo văn nghệ của Đảng. Thanh Bình theo yêu cầu xây dựng nền văn nghệ mới của cách mạng mà phê bình nó một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, nhưng cuối cùng thì Thanh Bình đã viết: “ Số là ông tin tưởng ở một ngày mai rực rỡ: “Chúng ta- lời ông Tửu- thấm nguyện rằng: cái ngày mai đó sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều điều kiện để chúng ta được yêu cuộc sống, yêu đồng loại, yêu nghệ thuật, chân thành hơn, rộng rãi hơn, như chưa bao giờ ta được yêu từ thuở nào đến thuở này”, “Thiên kết luận của tập sách là một tiếng gọi bạn, chứa chan nhiệt tình. Nếu như tôi đã phê bình khá ráo riết tập sách ông Trương Tửu về phần lý luận và cả phần thực hành nữa, thì ở đây, tôi cũng rất vui lòng và thành thực nhận rằng: trong tâm hồn nhà lý luận Trương Tửu, một thi sĩ vẫn luôn luôn nhỉ nhóm và lắm lúc thổ lộ được những câu trữ tình khá lâm ly”. Mấy vị gây sự kia đã bỏ đi không chút thương tiếc những lời này của Thanh Bình. Trương Tửu không chỉ là nhà văn mà còn là nhà báo. Thời kỳ mặt trận dân chủ tham gia hội nghị vận động tự do báo chí và được bầu là thư ký của hội nghị. Chủ bút tờ Quôc gia khuynh tả hăng hái đả kích Bảo Đại mà bị truy tố trước Tòa án Hà Nội và bị xử phạt. Đời văn của thầy Trương Tửu của chúng tôi trước Cách mạng tháng Tám 1945 nói qua là như thế. Sự thật là trên văn đàn công khai của nước nhà giai đoạn 1930 – 1945, ở thể loại phê bình nghiên cứu, dù đã được gì và chưa được gì, thì cái tên Nguyễn Bách Khoa- Trương Tửu xem ra vẫn ở bảng đầu. Chẳng phải, có người đã coi Nguyễn Bách Khoa – Trương Tửu là người tiên phong đặt nền móng cho cái gọi là khoa học nghiên cứu văn học đó sao. Khoa học nghiên cứu văn học của Trương Tửu – Nguyễn Bách Khoa so với phương pháp bình thơ dựa theo phương châm” lấy hồn ta để hiểu hồn người” của Hoài Thanh ở Thi nhân Việt nam là như nước với lửa. Nhưng mối kiểu vẫn có lý do tồn tại càn thiết và chính đáng của nó. Trong Thi nhân Việt Nam, đánh giá thơ Nguyễn Vĩ , Hoài Thanh chỉ coi Gửi Trương Tửu “mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vĩ”. Như thế là khen thơ Nguyễn Vĩ mà võ tình để lộ cội nguồn cảm hứng của Nguyễn Vĩ là Trương Tửu để cả hai cùng trường tồn.
Chúng ta kỷ niệm một nhà văn Trương Tửu sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã có nhiều năm tháng kết duyên thắm thiết với cách mạng, với kháng chiến chống thức dân Pháp tái xâm lược. Điều này có lẽ nhiều người gần đây mới biết. Ngày mồng 2 tháng Chín năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập thì 5 ngày sau tức mồng 7 tháng Chín 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời các vị Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh, Thượng Sĩ lên gặp để bàn về đường lối xây dựng tương lai văn nghệ nước nhà. Kế đó, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam được thành lập thì nhà văn Trương Tửu là một thành viên. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhà văn Trưng Tửu rời bỏ cữa nhà cùng vợ con đi kháng chiến. Trên đất tỉnh Thanh, váo năm 1948, Đoàn Văn nghệ kháng chiến liên khu Bốn thành lập thì nhà văn Trương Tửu cùng nhà văn Đặng Thai Mai là đồng Bí thư. Nhà văn Trương Tửu là người trực tiếp tố chức và điều hành ba lớp đào tạo văn nghệ sĩ kháng chiến có nhiều học viến về sau nổi tiếng như Hoàng Trung Thông, Bùi Hiển, Nguyễn Khải, Vũ Tú Nam. Hoàng Minh Châu… kể cả Nguyễn Mạnh Cầm sau này là Phó Thủ tướng. Năm 1949 nhà văn là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Có dịp đọc Kỷ yếu 45 năm văn hóa kháng chiến của khu Bốn xuất bản năm 1994 và bài viết của Hoàng Minh Châu đăng trên báo Văn nghệ cùng dịp ấy, hẳn sẽ thấy rõ tấm lòng của các nhà văn thuở ấy thầy Trương Tửu hầu đã đã rơi vào quên lãng gần một phần tư thế kỷ.
Chúng ta kỷ niệm một vị giáo sư sáng danh trong giảng đường đại học dưới chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1951, trên đất Thanh và Nghệ, dù cho kháng chiến đã ở vào thời kỳ quyết liệt, cực kỳ gian khổ, nhà nước ta vẫn không quên nhiệm vụ kiến quốc bên cạnh nhiệm vụ kháng chiến, đã thành lập hai phân hiệu Dự bị đại học, rồi nhập làm một tại Thanh Hóa và sau ngày hòa bình lập lại (1954) chuyển về thủ đô Hà Nội để trở thành trường Đại học Sư phạm Hà Nội rồi thêm trường Đại học Tổng hợp Hà Nội với một đội ngũ giáo sư gồm: Đặng Thai Mai, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn, Hoài Thanh, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Lân.., và Trương Tửu. Những Nguyễn Đức Đàn, Trần Đình Hượu, Đặng Thanh Lê, Trần Thanh Đạm, Phan Trọng Luận,… những Cao Xuân Hạo, Phạm Hoàng Gia, Văn Tâm, Ninh Viết Giao, Trọng Bằng, Bạch Diệp, Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê,… những Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Khắc Phi, Hà Minh Đức, Trần Văn Bính, Đặng Anh Đào… tất cả là những vị giáo sư, những nhà nghiên cứu thuộc ngành Ngữ văn, những nghệ sĩ về âm nhạc và điện ảnh, nổi danh từ mấy chục năm cuối thế kỷ XX đến nay, đều là học trò của những vị sư biểu này, nhiều vị là những ông trùm văn hóa của đất nước trong đó có giáo sư Trương Tửu. Giáo sư là một gương mặt sáng giá như thế nhưng lại bị “Trẻ Tạo hóa đành hanh quá ngán” gây trớ trêu hết nói mà thiết tưởng chúng ta đã biết. Nhưng sau ngày gặp nạn, giáo sư đã sống như thế này đây. Sống theo đạo vô thường của triết lý nhà Phật. Không làm thầy dạy đại học nổi tiếng nữa thì làm thầy châm cứu nổi tiếng để chữa bệnh cho hàng vạn dân lành . Không cầm bút viết văn chương nữa thì cầm bút viết sách y học châm cứu mà các nhà Đông y phải kính nể. Người học trò này và giáo sư Trần Quôc Vượng sau nhiều năm tháng cách biệt với Thầy, đến lúc đã được thời gian ít nhiều ủng hộ, đến thăm Thầy, không ngờ thấy Thầy vẫn thản nhiên, vẫn tươi vui, tự tại và đây là lời được nghe Thầy nói: “Chuyện của tôi thế nào thì các anh đã biết. Còn với tôi thì thế này: cuộc đời có lắm cửa. Bị đóng cửa này ta đi cửa khác, có gì mà phải cay cú, vật vã”, “Với tôi có làm sao thì cũng chưa bao giờ tôi quên ơn những nhà cách mạng đã vào sinh ra tử cho Tổ quốc, cho đất nước trong đó có gia đình tôi, mặc dù tôi thấy cách mạng cũng có sai lầm”, Ngày chúng tôi họp lớp sau ba mươi năm ra trường, mời Thầy cùng các Thầy khác tham dự. Lại đây là lời của Thầy:“ Các anh xem phim Tây du ký, thấy Đường Tăng đi thỉnh kinh, nhận được kinh nhưng bị mất trang cuối nên cứ ray rứt về chuyện công sức bỏ ra lớn như thế mà cuối cùng không có được một bộ kinh trọn ven. Thì Tôn Ngộ Không chẳng đã thưa : Sư phụ ạ! Đến Trời Đất cũng có trọn vẹn đâu nữa là bộ kinh. Đúng thế đấy các bạn ạ ! Chúng ta đều là những kiếp người bé mọn. Trời đất đã không trọn vẹn thì chúng ta lấy đâu ra trọn vẹn. Chỉ biết là dù ở hoàn cảnh nào. cũng cố mà làm được chút gì ích cho đời là được rồi, là vui rồi”. Còn đây nữa là câu nói thều thào đoản hơi trước mươi lăm hôm Thầy vĩnh biệt cõi đời: “Nhìn lại một đời người, tôi tự thấy không có gì phải xáu hổ với chính mình, không có gì phải gục mặt xuống với đời.”. Không dấu gì quí vị, trong Điếu văn đọc tại nhà hoàn vũ năm xưa, sau khi nhắc lại mấy lời đó của Thầy, tôi đã viết:“Thầy ơi ! trước những lời tự bạch gan ruột đó của Thầy, người đời ai cảm động và ai không cảm động. Riêng chúng em, lớp học trò của Thầy những năm xưa cũ, xin gửi váo đó những giọt nước mắt của tuổi già”.
Kính thưa quí vị! Sương đầu ngõ đã tan. Mây giữa trời đã vén. Hôm nay chúng ta kỷ niệm một cuộc đời như thế, một sự nghiệp như thế, một nhân cách như thế. Tôi xin được coi phòng họp của Hội nhà văn Việt Nam hôm nay là một không gian yên tĩnh, một không gian ăm ắp tình đời, tình người. Thời gian mấy tiếng đồng hồ của lễ kỷ niệm hôm nay là một khoảng lặng giữa những ngày ồn ào, ầm ĩ… Cầu mong có nhiều không gian yên tĩnh, có nhiều khoảng lặng như thế trên đất Việt trăm quí ngàn yêu của hôm nay và của mai sau.
Quí Tỵ, cuối thu (10-2013)
Nguyễn Đình Chú