Thư 1957 của PGS Lê Văn Chiểu

Đây là thư gửi cho các em gái của phó giáo sư Thiếu tướng Lê Văn Chiểu, một trong 21 thành viên của đoàn cán bộ khoa học kĩ thuật đầu tiên được Bác Hồ và trung ương Đảng cử đi Liên Xô học tập. Bức thư ông viết gửi các em khi vừa đi học Liên Xô về.

Gia đình Lê Văn Chiểu có 6 anh chị em, cha mất sớm, cuộc sống gia đình ông gặp nhiều khó khăn, mẹ ông phải buôn bán cau khô và phân phối gạo tại nhà để lấy tiền nuôi các con ăn học. Ngay từ khi học cấp 2, Lê Văn Chiểu phải đi làm gia sư cho con một gia đình giàu có ở Lạc Thúy viên. Trong ba năm, ông vừa dạy vừa học để thi vào trường Quốc học Huế.

Khi học ở trường Quốc học, Lê Văn Chiểu thích môn toán nhất vì ông tự nhận thấy mình có năng khiếu về toán. Mẹ và các anh chị thấy ông học được toán nên khuyến khích ông sau này đi dạy học và khuyên ra Hà Nội học tập. Khi chuẩn bị ra đi, gia đình Lê Văn Chiểu rất khó khăn. Tư trang của Lê Văn Chiểu chỉ là hai bộ áo quần ngắn, một bộ âu phục kaki mượn của người bạn. Mẹ ông cho thêm chiếc áo len của bà để đề phòng cái lạnh ngoài Bắc. Bà vú nuôi-người chăm sóc ông từ nhỏ tằn tiện được 1 đôi bông tai, cho ông một chiếc để có tiền đi tàu và chi tiêu khi mới ra Hà Nội, chiếc còn lại bà để dành lo hậu sự.

Lê Văn Chiểu một thân một mình ra Hà Nội, ông chỉ mong muốn học tập thật tốt. Ông thi đỗ chuyên ngành Toán của trường Khoa học Đại cương năm 1945. Lê Văn Chiểu dự định học xong sẽ về quê dạy học. Nhưng Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng 12-1946 đã làm thay đổi cuộc đời ông.  Lê Văn Chiểu ở lại Hà Nội, tham gia lực lượng công binh, đào hầm đóng ở ô Chợ Dừa, ô Cầu Rền, rồi được cử làm thư kí cho cụ Hoàng Đạo Thúy (lúc đó là Hiệu trưởng trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Bắc Cạn), sau trở thành nhân viên ở Phòng Xạ thuật, Nha Nghiên cứu Kĩ thuật, Cục Quân giới. Cũng từ cơ quan này, năm 1951, ông được Trung ương Đảng cử đi học sản xuất vũ khí tại Liên Xô trong đoàn 21 cán bộ khoa học kĩ thuật.

Từ ngày ra Hà Nội, chỉ đôi lần Lê Văn Chiểu liên lạc được với gia đình. Kháng chiến bùng nổ, ông di chuyển nhiều nơi nên không có điều kiện gửi thư nữa. Bất ngờ, sau khi ông học ở Liên Xô về năm 1957, người anh trai Lê Văn Diệm học Triết học ở Pháp gửi thư cho ông Tạ Quang Bửu (người ông coi như anh thân thiết từ khi ở Huế) nhờ chuyển cho Lê Văn Chiểu. Vì chỗ thân tình như thế nên nhận được thư của Lê Văn Diệm, sau khi trao đổi ý kiến với Tổng cục Chính trị, ông Tạ Quang Bửu đưa thư cho Lê Văn Chiểu, đồng ý để ông viết thư và gửi ảnh cho ông Diệm. Lê Văn Chiểu viết hai lá thư gửi sang Pháp theo địa chỉ của anh mình đã ghi trong thư, một lá thư gửi anh, một lá thư gửi các em Bé Chút (em Lê Gia Hương) và Trúc Em (Lê Thúy Hòe) để ông Diệm gửi về nhà cho gia đình (khi đó, hai miền Nam Bắc không liên lạc được nên phải trung gian qua Pháp).

Bức thư gửi ông Lê Văn Diệm đến nay không còn lưu giữ, nhưng bức thư gửi cho hai em gái được bà Lê Thúy Hòe lưu giữ như một kỷ vật quý. Đến năm 1981 khi đất nước thống nhất, anh em được gặp lại nhau, bà đã trao lại cho Lê Văn Chiểu làm kỉ niệm.

Trong thư ông viết với tình cảm đầy nhớ thương mẹ và các em, nhớ về gia đình với tình cảm da diết và mong muốn được biết cặn kẽ tin tức từ gia đình và tự hào khi chia sẻ với các em: “Còn anh thì thay đổi khá nhiều, các em cũng khó tưởng tượng được. Anh cao, to, khỏe mạnh không còn là cậu thư sinh gầy còm, đi chân đất, đi học xa với hai cái quần ngắn”…

Nhưng đau đáu trong lòng ông là mong muốn được gặp lại gia đình: “Trong 11 năm vừa qua, có những khi anh mệt, nghĩ đến nhà, nhớ những khi gây gổ với Trúc em anh thấy tội quá… Nói chung anh còn nhớ đến cảnh nhà ta trước kia, có khi ăn cháo với nhau nhưng đùm bọc nhau. Anh mong rằng sẽ được gặp Mạ, các em và những anh em trong gia đình ta”.

Có thể nhận thấy, trong con người vị Thiếu tướng Lê Văn Chiểu với dáng vóc oai phong, cao lớn, cùng những sáng tạo trong nghiên cứu vũ khí…, người đã góp phần xây dựng trường Đại học Kĩ thuật quân sự-trường đào tạo kĩ sư quân sự đầu tiên ở nước ta… vẫn ẩn chứa một nỗi niềm sâu lắng: nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Nỗi nhớ ấy đã theo ông từ ngày ra đi từ Huế, khi tuổi chưa đầy đôi mươi cho đến ngày giải phóng (năm 1975) mới được gặp lại gia đình. Nhưng dường như nỗi nhớ ấy càng tiếp thêm cho ông động lực để vươn lên trong nghiên cứu và cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.